28 thg 11, 2011

GS. NGUYỄN MINH THUYẾT: TỘI CHO HAI CHỮ "BIỂU TÌNH"


Đào Tuấn thực hiện

"Tội cho hai chữ "biểu tình". Nó có tội vạ gì. Nước ta là một nước dân chủ. Nhưng một Quốc hội dân chủ thì nghị sĩ không cần phải nói khéo. Cũng như một quốc gia dân chủ thì người dân không phải coi cái gì là tế nhị, nhạy cảm"- GS TS Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu QH các khóa XI, XII trả lời PV.
 
Đại biểu phải quen với sinh hoạt dân chủ

PV: Xin bắt đầu bằng cuộc tranh luận nảy lửa trên diễn đàn QH xung quanh dự án Luật Biểu tình. Thưa ông, vì sao cũng là đại diện cho nhân dân mà các đại biểu lại có những ý kiến hoàn toàn ngược nhau liên quan đến một quyền cơ bản của công dân như vậy?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Đại biểu QH (ĐB) là đại diện cho nhân dân và những phát biểu của họ tại QH phải nói lên tiếng nói của người dân. Nhưng nhân dân là một tập hợp đa dạng, và hiểu được dân để nói đúng ý dân là điều không dễ. Khi ĐB nói những điều phù hợp với lợi ích của đông đảo nhân dân thì dù họ có khiêm tốn nói đó là ý kiến cá nhân, người dân vẫn đồng tình. Ngược lại, dù ĐB có tự khẳng định là mình nói thay cho đại bộ phận nhân dân mà nội dung ý kiến không phù hợp với lợi ích của người dân thì cũng không được người dân tán thành. Trong trường hợp tranh luận về Luật Biểu tình, tôi cho rằng ĐB Hoàng Hữu Phước đã ngộ nhận ý kiến mình đại diện cho nhân dân. Ngay sau cuộc tranh luận tại QH, một trang mạng nổi tiếng đã tổ chức thăm dò và kết quả là có tới 98% ý kiến đồng ý ban hành Luật Biểu tình. Từ Hiến pháp năm 1946, quyền này đã được nói tới dưới hình thức quyền hội họp. Đến Hiến pháp 1959, biểu tình đã được coi là quyền hiến định. Biểu tình là quyền cơ bản của con người và chính nhờ những cuộc biểu tình như thế, Chính phủ mới biết được lòng dân mà điều chỉnh hành vi của mình. Luật Biểu tình cũng sẽ tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện vai trò quản lý trật tự xã hội tốt hơn. Như vậy, xét cho cùng, biểu tình là có lợi cho Nhà nước. Cũng may tại QH vừa rồi còn có ĐB Dương Trung Quốc nói lại, chứ nếu không, người dân sẽ nghĩ về QH rất khác. Được biết, sau cuộc họp, ông Hoàng Hữu Phước có những lời khá nặng nề trên blog cá nhân. Nếu đúng như vậy thì thật là đáng tiếc. ĐB phải quen với sinh hoạt dân chủ, quen với việc người ta nói khác ý mình và quen với phản ứng của những người đã bầu ra mình, thông qua báo chí.

PV: Trong chính ngày QH Việt Nam tiến hành chất vấn, cuộc họp QH một nước khác đã biến thành cuộc ẩu đả khi các nghị sĩ đối lập thậm chí xịt hơi cay vào mặt nhau khi thông qua Hiệp định thương mại với Mỹ. So với nước ngoài, nghị sĩ Việt Nam có vẻ hiền hơn, hay ở Việt Nam các nghị sĩ không đại diện cho những quyền lợi đối lập nhau?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Tôi đã từng thăm toà nhà Nghị viện Anh. Trong phòng họp Nghị viện, người ta xếp các hàng ghế của nghị sĩ thành hai khối đối diện với nhau, qua một chiếc bàn to, với khoảng cách chừng 3m. Người ta giải thích đó là khoảng cách an toàn khi các nghị sĩ thời xưa muốn "nói chuyện" với nhau bằng ... kiếm. Ở Nghị viện một nước châu Á mà tôi có dịp tới quan sát cuộc họp, các nghị sĩ phản đối nhau bằng cách đập bàn ầm ĩ rồi đứng cả lên la lối, không cho phe đối lập nói. Chuyện ẩu đả không hiếm trên nghị trường thế giới. Còn Quốc hội Việt Nam, từ thời Dân chủ Cộng hòa đến nay chưa từng xảy ra trường hợp ẩu đả nào. Cả Nội quy kỳ họp QH cũng như dư luận xã hội nước ta đều không chấp nhận chuyện nghị sĩ "thượng cẳng chân hạ cẳng tay".

Không có chuyện ẩu đả thì tốt, nhưng đúng là các ĐBQH Việt Nam lành quá. Lành và không hiểu hết, không sử dụng được hết quyền và nghĩa vụ của mình.

Trong QH ta không có những nhóm lợi ích đối lập nhưng đại diện từ các nhóm lợi ích thì có. Tại kỳ họp thứ 1, có đại biểu là doanh nhân cho rằng không nên hạn chế tín dụng đối với kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Trong phiên chất vấn Thủ tướng tại kỳ họp thứ 2, doanh nhân này lại đề nghị Thủ tướng cho lời khuyên các DN nên đầu tư vào đâu. Thủ tướng làm sao mà có quyền khuyên DN đầu tư vào đâu, trừ phi khuyên đầu tư vào miền núi, vùng sâu vùng xa, hải đảo. Mà xin Thủ tướng một lời khuyên cũng không phải là chất vấn. Bản thân các giải trình của một số Bộ trưởng (chẳng hạn, giải trình của Bộ trưởng Tài chính về lỗ lãi của ngành xăng dầu, hay Bộ trưởng Công thương về câu chuyện lương ngành điện 7,3 triệu đồng) cũng làm không ít ĐB và cử tri băn khoăn về nhóm lợi ích. Các bộ không thể đại diện cho DN như vậy được.

PV: Thưa ông, câu chuyện nghị sĩ đội mũ sắt đi họp hay nghị sĩ ẩu đả ở cuộc họp nghị viện nước ngoài liệu có phải là thước đo mức độ dân chủ, hay văn hóa nghị trường?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Theo tôi, điều quan trọng nhất là nghị viện có tranh luận dân chủ không, có thực quyền không. Còn nếu các nghị sĩ đánh nhau mà người dân chấp nhận, thậm chí thấy đó là do nghị sĩ quyết liệt bảo vệ quyền lợi cho dân thì cũng không sao. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh mà. Còn ở Việt Nam, người dân có tiêu chuẩn khác. Vừa rồi, có vị ĐB khi chất vấn nói Bộ trưởng Bộ GTVT trả lời lòng vòng như thế thì ai làm Bộ trưởng cũng được, hoặc khóa XII có vị nói một Bộ trưởng không xứng đáng với chức Bộ trưởng của mình, nói vậy thô quá, khó có thể nhận được sự đồng tình.

Trong kỳ họp thứ 2 này, tôi rất ấn tượng với phát biểu tranh luận của ĐB Dương Trung Quốc và chất vấn của ĐB Lê Bộ Lĩnh. Đó là những phát biểu sáng giá. Tại phiên chất vấn Thủ tướng hôm qua, ĐB Lê Bộ Lĩnh đã đưa ra những câu hỏi đúng tầm chính khách. Hỏi những điều mà người dân quan tâm và chờ đợi. Nhưng tôi không hiểu vì sao ĐB Lĩnh phải dùng cụm từ "biểu hiện lòng yêu nước" thay vì dùng “biểu tình”. Thật tội cho hai chữ "biểu tình". Nó có tội gì đâu? Nước ta là một nước dân chủ. Ở một Quốc hội dân chủ thì nghị sĩ không cần phải nói khéo. Cũng như ở một quốc gia dân chủ thì người dân không thể coi những việc đương nhiên phải làm là tế nhị, nhạy cảm.

PV: Chủ tịch QH Nguyễn Văn An từng nói về con số 400, tức là hơn 90% là đảng viên. Khóa này tỷ lệ còn cao hơn. Đây là một trong những nguyên nhân khiến một số nghị quyết của QH có nội dung khác với cuộc tranh luận tại Quốc hội mà trường hợp 92,9% đại biểu thông qua dự án mở rộng thủ đô là một ví dụ?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Cũng chính Chủ tịch Nguyễn Văn An đã giải thích với các bạn nước ngoài về việc hơn 90% ĐBQH là đảng viên mà sinh hoạt QH vẫn dân chủ. Theo Chủ tịch Nguyễn Văn An, ở các nước theo chế độ đa đảng, mỗi đảng viên ra trước QH nhất thiết phải phát biểu theo quan điểm của đảng mình. Còn ở Việt Nam, ý kiến của các đại biểu là đảng viên vẫn đảm bảo đa dạng, tranh luận rất sôi nổi. Tôi thấy cách giải thích này rất thuyết phục. Nhưng lúc biểu quyết thì đúng là có vấn đề thật. Bởi khi Trung ương đã quyết thì đảng viên phải theo nghị quyết của TƯ. Ví dụ, khi thăm dò dự án mở rộng thủ đô, tôi nhớ có 226 phiếu thuận và 226 phiếu chống. Nhưng khi biểu quyết thì tỷ lệ lên tới 92,9% tán thành. Chỉ có 4 phiếu chống, trong đó có phiếu của tôi. Tôi quan niệm mình nghĩ sao thì phải nói vậy, và đã nói thì phải làm đúng những điều mình nói. Nhưng cũng may con số tán thành mở rộng thủ đô hồi đó là 92,9% chứ nếu là 100% thì không thể chấp nhận nổi. Sau nghị quyết mở rộng thủ đô, Bộ Chính trị và TƯ đã điều chỉnh phương thức lãnh đạo của Đảng đối với QH, mà trường hợp dự án Đường sắt cao tốc sau đó là một ví dụ.

Quốc hội treo nhiều luật rất cơ bản

PV: Kể từ năm 1992, Quốc hội khóa nào cũng được mùa làm luật, nhưng vì sao những dự án luật liên quan đến dân chủ dân quyền, như Luật Lập hội, Luật Biểu tình, QH lại nợ dân lâu đến như vậy? Thưa ông?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Chương trình xây dựng pháp luật hầu hết đều do Chính phủ đề xuất. Chính phủ có thể đã cố gắng cân đối các mặt nhưng có vẻ quy hoạch xây dựng pháp luật vẫn không hợp lý. Trước năm 2003, QH tập trung làm các luật liên quan đến kinh tế để đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên giai đoạn đó qua rồi. Quả thực là QH nợ nhân dân quá lâu một số luật liên quan đến quyền tự do, dân chủ của dân. Cứ thập thò, đưa vào chương trình hoặc đưa dự thảo ra rồi lại rút. Ví dụ, Luật Trưng cầu dân ý, Luật về hội đã được đưa vào chương trình hoặc trình ra QH thảo luận từ khóa XI nhưng sau đó lại được rút khỏi chương trình. Luật Báo chí sửa đổi cũng chưa biết bao giờ mới thông qua được. Có thể đó là những vấn đề “nhạy cảm”. Nhân đây, xin nói là nhiều nước không có Luật Báo chí. Ở Mỹ, 
Hiến pháp (tu chính án năm 1791) quy định : “Nghị viện không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí, quyền của dân chúng được hội họp hoà bình và kiến nghị chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.”

PV: Ông vừa dùng từ "nhạy cảm". Như thế nào là nhạy cảm, thưa ông?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Đó là một thuật ngữ rất khó giải thích rõ ràng. “Nhân quyền”, “dân chủ” là nhạy cảm. “Biểu tình” nhạy cảm. Chống tham nhũng cũng thế, cứ như là chống Chính phủ vậy. 

PV: Tại kỳ họp trước, QH được "báo cáo riêng" và không có thảo luận về tình hình Biển Đông. Vừa rồi QH nghe báo cáo dự thảo Luật Biển, rồi thảo luận trong tình trạng họp kín. Một  dự án luật có nhất thiết phải họp kín, thưa ông?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Không có quy định rõ trường hợp nào thì họp kín, trường hợp nào thì không. Thường thì trong trường hợp nghe báo cáo hoặc bàn luận những vấn đề bí mật quốc gia hay vấn đề đối ngoại, Quốc hội họp kín. Điều đó hợp lý vì những thảo luận tại QH sẽ không bị lộ hoặc không ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao. Tuy nhiên, đối với vấn đề Biển Đông - một vấn đề thiết thân với đông đảo người dân, được người dân hết sức quan tâm - thì QH cần họp công khai để người dân được biết và cũng để những nước liên quan biết rõ quan điểm của nhân dân thông qua các nghị sĩ. Luật Biển (Luật Các vùng biển Việt Nam) là một văn bản pháp quy, liên quan đến toàn dân. Người thực thi là nhân dân. Vì vậy, người dân càng cần được biết và được tham gia ý kiến. Mà theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì các dự án luật phải công khai. 

PV: Tại kỳ họp vừa rồi, lần đầu mới xuất hiện việc các nghị sĩ QH đệ trình dự án luật. Cụ thể là Luật Nhà văn và Luật Đảm bảo quyền riêng tư. Thoạt nhìn, đây có vẻ như là một biểu hiện của dân chủ, nhưng theo ông, vì sao cử tri và nhân dân lại phản ứng dữ dội như vậy trước một biểu hiện của dân chủ?
  
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Việc cá nhân đại biểu đề xuất dự án luật theo tôi biết thì không phải đây mới là lần đầu tiên. Còn việc đề xuất 2 dự án luật nói trên gây ra phản ứng tiêu cực từ người dân là vì ý kiến đề xuất của ĐB không xuất phát từ lợi ích chung hoặc còn rất hời hợt. Chẳng hạn, nhiều người cho rằng ĐB đề xuất dự án Luật Đảm bảo quyền riêng tư xuất phát từ bức xúc cá nhân hơn là thấy sự cần thiết của dự án ấy đối với nhân dân. Còn đề xuất xây dựng Luật Nhà văn là một ý kiến hời hợt. Người đề xuất tuy là Hội viên Hội Nhà văn nhưng không hiểu rằng điều cần nhất đối với nhà văn không phải là luật hay tiền mà là tự do sáng tạo. Bên cạnh đó, cả hai ĐB đều không biết rằng việc đảm bảo quyền riêng tư đã được quy định trong Bộ luật Dân sự và những điều liên quan đến quyền lợi, trách nhiệm v.v… của nhà văn cũng như của những người sáng tạo nói chung đã được quy định trong Luật Xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ.
 

PV: Năm nay, QH tiếp tục có nghị quyết giám sát lời hứa của các vị Bộ trưởng. Nghị quyết này theo ông cần phải làm thường xuyên hơn?

GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Theo Luật Tổ chức QH và Nội quy kỳ họp QH, QH có thể ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn nếu thấy cần thiết. Nhưng việc ra nghị quyết đến khóa XII mới thực sự bắt đầu và cũng chỉ có ở 2 kỳ họp. Tôi cho rằng QH nhất thiết phải ra nghị quyết để xác định trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành đối với những vấn đề thuộc lĩnh vực điều hành của các cơ quan này, đồng thời yêu cầu những biện pháp buộc phải thực hiện, khuyến nghị những biện pháp cần xem xét. Bởi nếu không có nghị quyết, thì kết quả chất vấn của ĐB nhân dân sẽ phải phụ thuộc vào thiện chí của người trả lời chất vấn. Điều đó là không thể được.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Đào Tuấn (thực hiện)

25 thg 11, 2011

Những hình ảnh về đoàn biểu tình

Khẩu hiểu của các bạn trẻ
Biểu ngữ cho cuộc biểu tình

Tranh luận Luật Biểu tình dựa trên trên cơ sở nào? *

TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức

image Trước hết cần phân biệt khái niệm biểu tình với thực tế biểu tình muôn hình vạn trạng, nếu không sẽ như thầy bói xem voi, sờ thực tế cái tai định nghĩa ngay voi là cái quạt. Ngoại diên của khái niệm biểu tình là nhiều người tập trung lại theo nghĩa tập họp, tụ tập. Nhưng khác với tụ tập để lao động trong nhà máy vì mưu sinh, hay hội hè để vui chơi, đám ma đám cưới chia sẻ tình cảm gia đình, bán buôn trong chợ búa kiếm lời, hoặc bị tống tù do phạm tội, tụ tập biểu tình có nội hàm: xuất phát từ tâm, cùng nhau biểu thị tình cảm (biểu tình), thái độ, quan điểm của mình. Như vậy có 3 dấu hiệu để phân biệt biểu tình với các khái niệm khác có cùng ngoại diên tụ tập: 1- Biểu thị, 2- Tự nguyện, 3- Xuất phát từ tâm. Căn cứ 3 dấu hiệu trên, có thể xác định khi nào thì được gọi là biểu tình. a- Nếu tụ tập nhưng có sử dụng bạo lực, hoặc có hành vi xâm phạm lợi ích người khác, thì đó là bạo động, chứ không phải biểu tình.


Giải thích tại sao nhiều cuộc biểu tình ở các nước hiện đại, đoạn chót bị đàn áp, cưỡng chế giải tán, do bị biến thành bạo động; đàn áp lúc đó là đàn áp bạo động chứ không phải đàn áp biểu tình. b- Nếu tụ tập là do được trả tiền, được thuê mướn, hoặc cưỡng bức người khác, nghĩa là không tự nguyện, không phải từ tâm, thì đó là bè đảng, hoặc hình sự, không phải biểu tình. c- Biểu tình chỉ có thể biểu thị bằng hiện diện, hình ảnh, tiếng nói, vì vậy nếu nhằm mục đích “chống lại”, thì phải hiểu chống lại bằng cách biểu thị, tức phản đối, hoàn toàn khác với chống đối mang tính loại bỏ như bạo động. 


Biểu tình xuất phát từ “ý thức tự nhiên trước đồng loại”. “Tự nhiên” nghĩa là bản năng, không phụ thuộc bất cứ yếu tố bên ngoài nào. Còn “ý thức” chỉ có ở con người. Biểu tình, vì vậy, là một dấu hiệu thuộc tính riêng có của con người, phân biệt với thế giới sinh vật còn lại, hoàn toàn không phụ thuộc trình độ nhận thức. Do đó, biểu tình không như có ý kiến ngộ nhân tuỳ thuộc dân trí, để khẳng định nước nào biểu tình được, nước nào không thể. Ngay cả nếu thừa nhận điều đó, thì cũng mâu thuẫn với sử liệu thế giới, biểu tình được ghi lại từ thời La Mã cổ đại. Không quốc gia nào ngày nay thấp hơn dân trí Lã Mã thời đó cả.


Biểu tình ở các nước hiện đại gắn với cuộc sống thường nhật như ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, làm việc, diễn ra có khi chỉ bởi hiện tượng 1 đưá con bị cha mẹ lạm dụng khủng khiếp hay một người đi tầu bị kẻ xấu giết dã man gây bất bình dân chúng, hoặc bởi các chính sách nhà nước ảnh hưởng lợi ích của họ, bộ phận, giai tầng nào đó, buộc họ phải phản đối, hay chính phủ, các cơ quan công quyền tỏ ra bất lực, họ phải thể hiện bất tín nhiệm, hoặc bởi nhân quyền ở các nước khác vi phạm làm họ xót xa phải chia sẻ. Vì vậy, không thể gán cho biểu tình chỉ mỗi “chống Chính phủ nước mình hay một chủ trương của Chính phủ nước mình”, và càng không thể hiểu chống theo nghĩa chống đối. Ngộ nhận đó tất yếu dẫn tới hành vi ứng xử với biểu tình cực đoan. Chính để khắc phục nguy hại đó, Luật tụ tập biểu tình Đức VersammlG cấm biểu tình đòi hủy bỏ quyền biểu tình!


Đã là thuộc tính con người, thì biểu tình cũng xuất hiện từ khi có xã hội loài người, và phát triển cùng với lịch sử của nó, nhất là từ khi xã hội phân chia giai cấp, chiến tranh giữa các quốc gia. Tuy vậy, thế giới hiện chưa có bất cứ tư liệu nào xác định cuộc biểu tình đầu tiên trong lịch sử nhân loại xảy ra vào lúc nào và ở đâu, mà chỉ có thể ghi chép lại một số cuộc biểu tình xa xưa từ thời La Mã cổ đại, hoặc những cuộc biểu tình lớn nhất, như hai làn sóng biểu tình từ cách thế kỷ trước, ngày Quốc tế phụ nữ 8.3 (biểu tình năm 1857 tại Mỹ) và Quốc tế Lao động 1.5. (biểu tình năm 1856 tại Úc). Vì vậy, truyền thông cần đính chính khi dẫn liệu phát biểu của Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước, cho rằng “cuộc biểu tình đầu tiên trong lịch sử loài người là năm 1913” ở Ấn Độ, do Gandhi tổ chức, bởi đây là kiến thức sử học liên quan đến giáo dục đào tạo của đất nước, không thể để ngộ nhận. Hai cuộc biểu tình trên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, mang lại lợi ích to lớn cho nhân loại, tới nay cả thế giới vẫn long trọng tổ chức hàng năm. Giải thích tại sao thế giới hiện đại trọng thị biểu tình, cho dù không hiếm cuộc biểu tình bị biến thể sang bạo loạn gây thiệt hại, không như Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phương phản ứng bằng ngôn từ “ô danh”, vốn ở các nước hiện đại bị coi xúc phạm lương tri, chưa nói bạc bẽo đối với bao cuộc biểu tình lớn nhỏ trên thế giới không kể xiết chống chiến tranh Việt Nam trước đây. 


Biểu tình cũng như ăn ở, đi lại, làm việc… là bản năng, thuộc tính con người, nên trở thành quyền cơ bản, “tạo hoá ban cho họ”, chứ không phải nhà nước, hay tôn giáo, hay bất cứ thế lực nào ban, cho cả. Một khi đã là quyền cơ bản, thì một mặt các quyền đó bình đẳng ngang nhau ở chỗ đều mang tính chất bản năng thuộc tính người, mặt khác chúng tự động trở thành đối tượng chi phối của luật pháp, nghĩa là thuộc chức năng trách nhiệm của chính quyền phải bảo đảm, không nhà nước dân chủ nào thoái thác nổi.Vì vậy không thể đặt câu hỏi “Liệu cái gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn quyền được kiếm sống của người dân…”, như Hoàng Hữu Phước phát biểu, trong khi cả hai đều là bản năng như nhau. Còn trong thực tế, đúng có những cuộc “Biểu tình xâm hại quyền tự do đi lại của người dân, xâm hại quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của người dân, buôn gánh bán bưng”, cũng giống như quyền làm việc có khi gây ô nhiễm môi trường, quyền tự do ăn uống nhưng khi bị bệnh lại lây nhiễm sang người khác, quyền đi lại bằng xe cộ, lại dẫn tới tai nạn chết người, nhưng không vì thế mà cấm hết những quyền đó. Ngược lại, vì thế mà loài người bắt buộc phải sinh ra nhà nước, cũng để bảo đảm quyền nọ không triệt tiêu quyền kia. Các luật liên quan tới quyền cơ bản, như Luật biểu tình, Luật lưu trú, Luật giao thông, vệ sinh thực phẩm, trở thành tất yếu khách quan là vậy.

Là đối tượng điều chỉnh của Luật pháp, biểu tình được các nước chọn lựa cách giải quyết xưa nay như sau:

1- Không đả động đến. Trong trường hợp đó, người dân biểu tình hay không, nhà nước cho phép hay đàn áp, đều hoàn toàn tự phát và tùy tiện xử lý, hậu quả cả nhà nước và công dân đều thiệt hại. Cuối cùng vẫn buộc phải đề cập đến nó theo những cách thức dưới đây.

2- Không thưà nhận quyền biểu tình và cấm tuyệt đối nó, thường xảy ra ở những chế độ quân chủ độc tài. Lịch sử thế giới đã chứng minh sự sụp đổ tất yếu của nó, bởi không thể tước bỏ thuộc tính người vốn dĩ chỉ có ở con người.

3- Hiến định quyền biểu tình được bảo đảm bằng Toà án Hiến pháp, nhưng thiếu luật điều chỉnh. Nước Đức từng xảy ra như vậy trong 4 năm sau khi ban hành Hiến pháp năm 1949. Kết qủa, biểu tình vẫn được tổ chức như vốn có, không hề thay đổi, bởi đã được hiến định, nhà nước không thể cấm. Tuy nhiên, chính quyền không chủ động ngăn ngừa trước được thiệt hại hay biến thái thành bạo động có thể xảy ra, và khi xảy ra thì xử lý lúng túng, phải áp dụng luật dân sự hoặc luật hình sự phức tạp. 


4- Hiến định quyền biểu tình được bảo đảm bằng Toà Bảo hiến và ban hành văn bản lập pháp bảo đảm chắc chắn nó. Đó là lựa chọn duy nhất hiện nay ở các nước hiện đại. Hiến pháp và Toà Bảo hiến buộc nhà nước phải bảo đảm thực thi quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền biểu tình, vốn là mục đích của bất cứ nhà nước dân chủ nào. Bởi nói nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân, rốt cuộc cũng chỉ nhằm bảo đảm quyền cơ bản cho họ, chứ không phải thay họ lo cho cuộc sống của họ, vốn chưa và không nhà nước nào làm nổi. Ngược lại quyền cơ bản một khi được bảo đảm sẽ kích thích người dân không ỷ lại mà làm chủ nhà nước, sử dụng quyền đó để vừa tham gia vừa đòi hỏi các công bộc nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách sao cho phù hợp với nhu cầu của mình. Bởi nhà nước không phải thánh, cái gì cũng đúng, vì vậy mọi chính sách của nó cần được thực tế kiểm nghiệm không đâu chính xác hơn ngoài chính người dân chịu sự chi phối trực tiếp của chính sách, mà biểu tình phản ảnh tập trung nhất. Giải thích tại sao các nước hiện đại khuyến khích biểu tình, phản biện, trưng cầu dân ý, và bất cứ quyết định nào của cơ quan hành chính từ phạt xe chạy phạm luật đến mức thuế phải đóng, giải quyết các đơn từ, đều bắt buộc phải có phần hướng dẫn, ông bà có quyền chống lại quyết định này tại cơ quan nào, ở đâu, nếu vẫn không thoả mãn thì tại toà án nào. Nhờ có Luật biểu tình, những biến thái chuyển sang bạo động sẽ được tham chiếu với các quy phạm trong luật biểu tình để ngăn ngừa. Toà án Hiến pháp sẽ bảo đảm cho luật hoặc văn bản dưới luật ban hành không thể vi hiến, nếu Chính phủ muốn “nhẹ gánh” bằng cách ban hành luật hạn chế quyền biểu tình.

5- Hiến định quyền biểu tình, nhưng chưa có toà án hiến pháp bảo đảm và thiếu văn bản lập pháp điều chỉnh. Đó là trường hợp ở nước ta (xem điều 69 Hiến pháp 1992). Các cuộc biểu tình ở Thái Bình trước đây đã gây hậu qủa thiệt hại cho cả người biểu tình lẫn nhà nước, xử lý rất phức tạp, hay biểu tình ở Hà Nội vừa qua dẫn tới phiền lụy chính những người biểu tình “thể hiện lòng yêu nước”, lẫn chính quyền mất công sức xử lý nhưng thiếu văn bản lập pháp làm cơ sở, đã cho thấy hệ lụy tất yếu phải đến của cách chọn lựa trên, và nếu cứ để thế mãi chưa biết tình hình sẽ tiến triển tới đâu. Đề xuất cần có Luật biểu tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp đó, là phản ứng cần thiết, kịp thời, thể hiện bản lĩnh chính trị cần có của người đứng đầu Chính phủ vốn bắt buộc phải có ở các quốc gia hiện đại trước bức xúc của dân chúng. 


Nếu coi chọn lựa của các cường quốc năm châu là mục tiêu cần đạt tới, để sánh vai với họ, và thừa nhận đề xuất cần có luật biểu tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phản ảnh đúng đòi hỏi bức bách của người dân, thì câu hỏi đặt ra cho Quốc hội có chức năng lập pháp không còn là cần hay không bởi câu hỏi đó thừa. Và cũng không thể hỏi, liệu ban hành luật biểu tình có gây tổn hại hay không, mà phải hỏi, luật biểu tình phải đặt ra những chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự như thế nào cho cả chính quyền lẫn người biểu tình để quyền biểu tình hiến định thực thi bất cứ lúc nào, ở đâu, đều được nhà nước bảo đảm chắc chắn, trong trường hợp bạo động xảy ra sẽ được chế tài kịp thời. Trả lời câu hỏi trên không quá khó khăn, nếu nghiên cứu luật biểu tình các nước, cùng khảo sát thực tế biểu tình ở họ vốn diễn ra thường nhật. Đó chính là căn cứ thực tiễn thế giới để tham khảo xây dựng luật biểu tình. Dự Luật Thủ đô cũng từng được chuẩn bị như vậy bằng cách tổng hợp phân tích luật thủ đô các nước.

23 thg 11, 2011

Tư tưởng lẫn lộn của Bộ trưởng Thăng


Tư tưởng lẫn lộn của Bộ trưởng Thăng

Ôi trời ơi!. Bổ trưởng Thăng được báo chí tung hô có những phát biểu lung tung trước quốc hội. Điều này càng chứng minh cho một tư duy yếu kém, sự hiểu biết hạn hẹp của ông.

Tướng Đồng Sỹ Nguyên: 'Bộ trưởng Thăng chưa bắt đúng bệnh'
"Muốn giải quyết vấn đề giao thông, trước hết phải giải quyết nhập cư bởi không chỉ nhập cư con người mà còn nhập cư cả xe máy. Phải hạn chế đăng ký ôtô, xe máy", cựu Bộ trưởng Giao thông Vận tải chia sẻ. 

>
 'Tôi chưa thể hứa bao giờ hết tắc đường'
>
 Bầu chọn nhân vật của năm 2011



Sáng nay, sau khi nghe phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng, trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giao thông Vận tải những năm 1970 trả lời báo chí bên hành lang Quốc hội.
Theo trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, việc Bộ trưởng Thăng trả lời đại biểu không có kết quả, không giải quyết được vấn đề vì chưa bắt đúng bệnh. "Như thầy thuốc muốn chữa thì phải chẩn đoán đúng bệnh. Mọi thành công hay thất bại, trước hết phải tìm nguyên nhân", tướng Nguyên ví von.
Đề cập tới nguyên nhân gây ùn tắc giao thông, vị cựu Bộ trưởng Giao thông cho rằng, mấu chốt là việc cho xe máy, ôtô nhập ào ạt, nhập cư không kiểm soát, hệ thống đường giao thông chưa đa dạng, đồng bộ. Việc làm nhà cao tầng trong nội thành đã phá vỡ quy hoạch lâu đời, thu hút dân, tăng thêm phương tiện vào nội thành.
"Muốn giải quyết vấn đề giao thông, trước hết phải giải quyết nhập cư bởi không chỉ nhập cư con người mà còn nhập cư cả xe máy, phải hạn chế đăng ký ôtô, xe máy. Ngày xưa hạn chế phương tiện với các đô thị là đúng chứ bây giờ tự do, tất cả tỉnh đều đổ xô về thủ đô", ông Nguyên chia sẻ.
Cũng theo vị tướng gần 90 tuổi này, việc nói mỗi năm giảm 5-10% tai nạn giao thông là không có cơ sở khoa học bởi hiện nay nhà nước buông lỏng việc quản lý trật tự, an toàn, kỷ cương, văn minh. Đổi giờ làm theo ông cũng "không ăn thua" khi mà vỉa hè vẫn còn để ôtô gây khó khăn cho người đi bộ.
Tuy nhiên, trung tướng Đồng Sỹ Nguyên thừa nhận, một mình Bộ trưởng Thăng không thể giải quyết được và Chính phủ phải lập lại kỷ cương, trật tự.
Tiến Dũng

22 thg 11, 2011

Đừng Lấy Dối Trá Làm Lẽ Sống


Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Khoa Học Viện hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng:

Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ - rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?

Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế - miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí. Chúng ta sợ lạc đàn, sợ đi một mình không có cơm ăn, không có khí đốt, không có hộ khẩu thành phố. [i]

Chúng ta bị nhồi sọ chính trị, bị người ta tiêm cho cái ý nghĩ phải an thân đã, rồi sau sẽ tốt đẹp hết. Chúng ta không thoát khỏi được hoàn cảnh và điều kiện xã hội của mình. Cuộc sống hàng ngày quyết định ý thức. Chúng ta thì có liên quan gì tới mấy việc đó? Và có thật là chúng ta không thay đổi được gì không?

Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.

Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.

Bây giờ búa liềm đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối.

Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chúng tôi trong sạch.

Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.

Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.

Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.

Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.

Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.

Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.

Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.

Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.

Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.

Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:

• bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;

• không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;

• không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;

• không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;

• không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;

• không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;

• không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;

• lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;

• không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.

Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.

Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.

Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần. Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.

Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.

Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao? [ii]

Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.

Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.

Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.

Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:

"Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.” 

Thái Phục Nhĩ
 

[i]
 Nguyên văn là hộ khẩu Moscow

[ii] Mùa xuân năm 1968 dân Tiệp Khắc đứng lên đòi tự do, muốn li khai khỏi Liên Bang Soviet. Nhà cầm quyền Liên Bang Soviet cho thiết giáp vào Prague nghiến nát người biểu tình.

***

Tiểu sử văn hào Aleksandr Solzhenitsyn

Văn sĩ Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn (1918 - 2008) được nhiều người coi là văn hào Nga lớn nhất thế kỉ 20. Sống, thành tài và thành danh trong Thời Đại Hắc Ám Mới – chủ nghĩa cộng sản, Solzhenitsyn viết những tác phẩm tả thật chế độ Liên Bang Soviet, và can đảm sống một cuộc đời của một chính nhân quân tử ông còn được nhiều người gọi là lương tâm của một thời đại.

Solzhenitsyn bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình trong khi phục vụ cho Hồng Quân trong Đệ Nhị Thế Chiến. Ở trong đó, ông đã hoài nghi những giá trị luân lí của chế độ Stalin. Đệ Nhị Thế Chiến sắp chấp dứt, năm 1945, Solzhenitsyn bị bắt vì dám phê bình chính sách chiến tranh của Joseph Stalin. Ông bị khép vào tội tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa Soviet, bị áp giải về Moscow và xử tám năm lao động khổ sai trong trại lao động cưỡng bức. Trong trại, ông ghi chép và lưu lại nhiều tài liệu làm đề tài cho những tác phẩm sau này. Năm 1950, ông bị đưa vào Trại Giam Đặc Biệt dành cho tù nhân chính trị. Tuy việc chính là thợ nề, thợ mỏ, ông cũng dành thì giờ ghi chép. Những ghi chép của ông ở trại đặc biệt này là tài liệu cho cuốn One Day in the Life of Ivan Denisovich sau này.

Năm 1953, mãn án, ông bị đưa đi Kazakhstan giam lỏng. Trong thời kì giam lỏng này, ông bị ung thư suýt chết, và bắt đầu suy tư sâu sắc hơn về giá trị của cuộc đời, của tự do. Từ đây, ông quyết định giã từ chủ nghĩa cộng sản của Marx.

Khrushchev lên thay Stalin cai trị Liên Bang Soviet, nới lỏng bàn tay sắt và cho văn sĩ tự do ngôn luận. Nhờ vậy mà Solzhenitsyn được tha bổng năm 1956. Về lại Nga, ông ban ngày dạy học, ban đêm bí mật viết lách. Khrushchev đang chủ trương bài Stalin, cho phép ông xuất bản bộ One Day in the Life of Ivan Denisovich, năm 62. Bộ đó mô tả nhiều tội ác của chế độ Stalin trong các trại tù lao động cưỡng bức, là tác phẩm văn học thời Soviet viết về chủ đề chính trị mà tác giả lại là người không theo cộng sản. Tất nhiên là phải kiểm duyệt gắt gao và cắt bỏ nhiều. Bộ đó còn được đưa vào trường dạy cho học sinh. Nhưng thời vàng son đó không lâu; Solzhenitsyn chỉ xuất bản được thêm vài ba tác phẩm ngắn nữa thì Khrushchev thoái vị, và ông cũng bị treo bút. Từ đó trở đi, viết lách đối với ông là một sự cả gan, vì sợ mật thám KGB. Trong diễn văn nhận giải Nobel Văn Chương, ông viết rằng từ sau khi được thả lỏng cho tới 1961, ông tin là mình sẽ không bao giờ xuất bản được một dòng nào nữa, viết rồi cũng không dám đưa cho bạn bè và người thân đọc, vì sợ người ta biết. Mặc dù sau này có bạn bè làm trong ngành xuất bản giúp đỡ, tác phẩm của ông cũng không qua khỏi con mắt dò xét của Hội Nhà Văn. One Day in the Life of Ivan Denisovich là một trong những tác phẩm ít ỏi của ông được xuất bản tại Liên Bang Soviet.

Sau khi chính quyền Liên Bang Soviet siết chặt lại chính sách văn nghệ, Solzhenitsyn gần như bị treo bút. Bị mật thám KGB theo dõi, ông vẫn cặm cụi làm việc để viết cho xong tác phẩm lớn nhất của ông The Gulag Archipelago. Mật thám KGB cuối cùng cũng biết ông đang lén lút cưu mang những tác phẩm phê phán chế độ. Bản thảo bị cướp; năm 1969 Solzhenitsyn bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn. Ông hoảng sợ và tuyệt vọng. Trong cơn tuyệt vọng ấy, ông ngộ ra sự tự do tâm thức mà không công an mật hay nhà tù nào có thể cướp đi được của một người muốn xiển dương chân lí. Dần dần ông giải phóng mình khỏi cái bẫy của những vinh dự dối trá dành cho những nhà văn được chính quyền công nhận. Mặc dù toàn bộ tài liệu và ghi chép của ông bị tịch thu, ông vẫn tìm cách bí mật chuyển bản thảo The Gulag Archipelago (viết 1958–67) cho một người bạn cất giữ. Bộ đó đợi tới sau khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Bang Soviet, ông mới có dịp công bố và xuất bản. Thật là một lịch sử li kì của một áng văn bất hủ.

The Gulag Archipelago tả trại lao động cưỡng bức dưới chế độ cộng sản Soviet, chủ yếu dành cho tù binh chiến tranh và tù nhân chính trị. Solzhenitsyn dùng lời chứng của nhiều tù nhân và công trình khảo cứu của ông về hệ thống trại tù này, truy lại nguồn gốc của nó từ thời cách mạng Bolsheviks. Nhờ nó mà độc giả biết được Lenin mà nhiều người cộng sản tôn sùng chính là tác giả của các quy trình tra vấn, vận chuyển tù binh, cách xử sự trong trại tù, và các phương pháp giam lỏng liên quan tới hệ thống tù khét tiếng này. Tác phẩm này nhanh chóng trở thành tác phẩm kinh điển của thế kỉ hai mươi, được dịch ra nhiều thứ tiếng, và đưa gulag vào thành một mục từ trong các từ điển của phương Tây.

Năm 1970, ông được trao giải Nobel Văn Chương, nhưng không sang Stockholm nhận thưởng được, vì ra đi tức là sẽ không còn ngày về lại quê hương. Năm 1974, khi đang lưu vong ở Tây Đức, người ta mới làm lễ trao giải riêng cho ông.

Ngày 12 tháng Hai 1974, Solzhenitsyn bị công an đột nhập vào nhà. KGB tìm thấy một phần bản thảo bộ The Gulag Archipelago. Ông bị tước quyền công dân Soviet và trục xuất sang Frankfurt, Tây Đức. Sau đó ông lưu vong ở nhiều nơi, Thụy Sĩ, Mĩ, cho tới khi chế độ Liên Bang Soviet sụp đổ, ông cùng vợ trở về Nga và phục hồi quyền công dân.