29 thg 2, 2012

Phát biểu của Tổng bí thư tại Hội nghị triển khai nghị quyết T.Ư 4

Sáng 27-2, Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết T.Ư 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã khai mạc tại Hà Nội.
Các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đại biểu tại hội nghị - Ảnh: TTXVN
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc hội nghị - Ảnh: TTXVN
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì, phát biểu chỉ đạo và truyền đạt nội dung nghị quyết.
Dưới đây là toàn văn phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị:
"Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã bàn và thống nhất ban hành nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Đây là một nghị quyết rất quan trọng, được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm; quan tâm từ trong quá trình diễn ra hội nghị đến khi kết thúc hội nghị.
Ngay sau khi ban hành, nghị quyết đã được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đón nhận với một tình cảm hồ hởi, vui mừng, đồng tình, nhất trí cao, cho rằng nghị quyết đã lựa chọn đúng vấn đề, đánh giá đúng thực trạng và đề ra đúng các giải pháp để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân. Đã có hàng trăm bài báo, hàng trăm bức thư, hàng nghìn ý kiến tâm huyết gửi về trung ương bày tỏ tình cảm và sự tâm đắc, phấn khởi, kỳ vọng của mình.
Tuy nhiên, dư luận cũng đang chờ đợi và có phần băn khoăn, lo rằng liệu nghị quyết lần này có được tổ chức thực hiện hiệu quả không hay lại rơi vào tình trạng "không đạt yêu cầu" như nhiều lần trước. Tâm trạng đó là chính đáng và cũng là điều day dứt, trăn trở chung của tất cả chúng ta.
Ý thức sâu sắc được vấn đề này, ngay tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Ban Chấp hành Trung ương đã yêu cầu phải lãnh đạo, chỉ đạo thật tốt việc tổ chức thực hiện, coi đây là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định để đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Sau một thời gian ngắn tích cực và khẩn trương chuẩn bị, hôm nay, Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để phổ biến, quán triệt nội dung của Nghị quyết Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch triển khai của Bộ Chính trị. Sự có mặt đông đủ của tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và sự tham gia của toàn thể cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành trong cả nước đã nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Hội nghị này và thể hiện tinh thần nghiêm túc, quyết tâm cao của Đảng ta ngay từ khâu mở đầu trong toàn bộ kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Có lẽ đây cũng là Hội nghị lớn nhất về phổ biến một Nghị quyết chuyên đề của Trung ương từ trước đến nay.
Mục đích của Hội nghị này là thông qua việc giới thiệu, phổ biến các nội dung Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch, giúp các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những kiến thức cần thiết, những tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết có hiệu quả trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực thuộc trách nhiệm lãnh đạo của mình.
Ban Tổ chức Hội nghị đã phổ biến, báo cáo với các đồng chí chương trình, nội dung, cách thức tiến hành Hội nghị. Tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm là, Hội nghị của chúng ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Các đồng chí cần nêu cao ý thức trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, tập trung cao độ cho việc học tập, nghiên cứu, thảo luận, để thu được kết quả tốt. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có quyết tâm rất lớn và thống nhất rất cao. Mong toàn thể các đồng chí cũng thống nhất rất cao và quyết tâm rất lớn, ngay trong việc học tập Nghị quyết này.
Vừa qua, các đồng chí đã được nghe thông báo nhanh kết quả và các nội dung chính của Hội nghị Trung ương 4 qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc tại các hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết do cấp ủy tổ chức. Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị viết rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, các đồng chí cần nghiên cứu trực tiếp. Sau đây, để giúp các đồng chí hiểu sâu hơn, tôi xin nói thêm một số vấn đề, chủ yếu là cung cấp thông tin hoặc nói rõ hơn một số nội dung được đề cập trong Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị.
Tập trung vào 4 phần lớn: (1) Vì sao lúc này Trung ương phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng. (2) Mục đích, yêu cầu, quá trình chuẩn bị và phạm vi của Nghị quyết. (3) Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị. (4) Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện.
I- VÌ SAO LÚC NÀY TRUNG ƯƠNG PHẢI BÀN VÀ RA NGHỊ QUYẾT VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Đã có không ít các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng Đảng. Các Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đều có đề cập đến công tác xây dựng Đảng; có đại hội có báo cáo riêng về xây dựng Đảng. Chỉ tính từ Đại hội VI đến nay, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành 8 nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Ban Bí thư khoá VII đã chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm xây dựng Đảng thời kỳ 1975 - 1995; Ban Bí thư khóa IX chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 - 2006), trong đó có phần về xây dựng Đảng.
Đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng như vậy, tại sao lần này Trung ương lại phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng nữa?
Theo tôi có 4 lý do:
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là bài học lớn, là kết luận sâu sắc được rút ra qua suốt quá trình hơn 80 năm hoạt động của Đảng ta, đồng thời cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng, nhiều nước trên thế giới. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã khẳng định: "Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy. Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã coi sự lãnh đạo của đảng cộng sản là vấn đề có tính nguyên tắc, có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ cũng đã từng nói, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Sự tan rã của Liên Xô là do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi; một số người lãnh đạo cấp cao của Đảng rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hữu khuynh, mắc sai lầm về đường lối, thậm chí phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đảng đông (21 triệu đảng viên) nhưng không mạnh, mất sức chiến đấu nên khi tình hình xấu xảy ra đã tan rã. Có thể nói, đây là bài học vô cùng sâu sắc và đắt giá mà mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần phải thấm thía, luôn luôn khắc sâu, ghi nhớ, đừng để đi vào "vết xe đổ" đau xót đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh không để bị "Tây hóa", "tha hóa", "thoái hóa". Đảng Cộng sản Cu-ba đang đổi mới từng bước theo đường lối "cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế - xã hội", cũng kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Mới đây, Đảng Cộng sản Cu-ba vừa tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc về xây dựng Đảng. Trong thời đại ngày nay có lẽ không có nước nào trên thế giới lại không có đảng (dù một đảng hay nhiều đảng) hoặc một tổ chức chính trị tương tự như đảng lãnh đạo.
Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập tự chủ của Tổ quốc ta. Vào thời điểm này, chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Vừa qua, cũng có nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác chưa phải đã nhận thức một cách sâu sắc vấn đề này. Hoặc là chỉ nặng về công tác chuyên môn, chưa quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng; hoặc là có ý nào đó xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng, coi nhẹ công tác Đảng. Đây đó có người cho rằng phát triển kinh tế thị trường, nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập quốc tế, liên doanh, liên kết với nước ngoài thì cần gì phải có sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí có ý kiến cho rằng hình như sự lãnh đạo của tổ chức đảng chỉ gây rắc rối thêm, ngáng trở sự phát triển của kinh tế (?).
Hai là, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa . Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thật sự là một cuộc vận động cách mạng toàn diện, sâu sắc và cao cả.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế... Phải xử lý, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa... So với trước đây, chưa bao giờ đất nước ta lại triển khai xây dựng, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế với quy mô rộng lớn như hiện nay. Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải được giải đáp và giải quyết, cả về lý luận và thực tiễn; có những vấn đề tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lý.
Tình hình thế giới lại đang có những diễn biến hết sức mau lẹ, phức tạp, khó dự báo, do có sự tranh chấp giữa các nước lớn, giữa các lực lượng; sự mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các giai cấp, các dân tộc, các khu vực; sự biến đổi khí hậu toàn cầu; sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ... Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế của hệ thống tư bản chủ nghĩa những năm 2008 - 2009 chưa giải quyết xong thì lại đến cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ và nhiều nước Tây Âu lan tràn từ Ai-len, Hy Lạp đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, I-ta-li-a... Phong trào "Chiếm phố Uôn" từ Niu-oóc đã lan khắp các thành phố ở Mỹ, sang cả nhiều nước Tây Âu, Nhật Bản... Cuộc khủng hoảng nợ công này được coi là biểu hiện của "lỗi hệ thống", phản ánh sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản, có thể dẫn đến cuộc suy thoái mới của chủ nghĩa tư bản, theo như nhận định và dự báo của nhiều chuyên gia quốc tế. Tình hình Biển Đông, tình hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến phức tạp mới...
Trong tình hình ấy, chúng ta chủ trương thực hiện một đường lối đối ngoại độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế; phải xử lý các mối quan hệ sao cho vừa kiên định về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, khôn khéo về phương pháp, sách lược; vừa giữ vững độc lập chủ quyền của quốc gia, bảo vệ được chế độ chính trị, thành quả cách mạng, vừa tạo được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước, tránh được sơ hở, tránh bị mắc bẫy, thêm được bạn, bớt được thù, quả thật là không đơn giản. Trong quá trình chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, có nhiều việc chúng ta phải vừa làm, vừa học, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm và chịu tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Có không ít vấn đề tác động trực tiếp đến nước ta, vào cả tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, nhân dân ta.
Ba là, bản thân Đảng, bên cạnh mặt tích cực, bản chất và truyền thống tốt đẹp được phát huy cũng đang đứng trước nhiều yêu cầu mới và có những hiện tượng tiêu cực, phức tạp mới . Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;... đất nước lại phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không? Thực tế đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người "sám hối", "trở cờ"; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lê-nin và Bác Hồ đã từng cảnh báo. Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động tiêu cực vào sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây thực sự là những cảnh báo không thể xem thường.
Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động . Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. "Diễn biến hòa bình" là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là "thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi". Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp "chuyển hóa hòa bình", "biến đổi hòa bình", "cách mạng hòa bình" và gần đây là "cách mạng nhung", "cách mạng màu", "cách mạng đường phố"... Trong chiến lược này, hoạt động tư tưởng - văn hóa được họ coi là "mũi đột phá", là "cây cầu dẫn vào trận địa", là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết: "Có những việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn thành"; "một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước". Ngày nay "làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người"; "một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô la chi cho quốc phòng"; "kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là bốn đòn đột phá khẩu, bốn mũi xung kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị".
Thời gian gần đây, các làn sóng chống đối ta về mặt tư tưởng chính trị lại rộ lên, có lúc dồn dập. Có thể là do tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến mới; tình hình kinh tế - xã hội nước ta bên cạnh thành tựu lớn cũng xuất hiện những khó khăn và thách thức mới, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, hối lộ, ma túy, mại dâm... tiếp tục gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo phát triển. Tình trạng quan liêu, mất dân chủ làm dân bất bình dẫn đến khiếu kiện đông người ở một số nơi phức tạp. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chắc mẩm đây là cơ hội để họ dấn tới tác động, làm chuyển hoá tình hình, thay đổi đường lối ở nước ta, cho nên họ hoạt động rất điên cuồng với nhiều thủ đoạn và sách lược mới; vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển lực lượng ở trong nước ta để tạo ra sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", chống đối từ nội bộ Đảng ta, xã hội ta, hòng phá ta từ bên trong phá ra, làm cho "cộng sản tự diệt cộng sản", "cộng sản con diệt cộng sản bố". Họ đang cố tìm ra và dựng lên những "ngọn cờ" để chống ta. Một số người cơ hội chính trị, bất mãn cũng lợi dụng các diễn đàn, các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái của mình, liên tiếp viết đơn thư, tài liệu vu cáo, đả kích chế độ ta, tác động vào nhân dân, nhất là thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ, trí thức...
Nội dung các quan điểm của họ vẫn là những luận điệu lâu nay các nhà tư tưởng chống cộng đã từng nói và đã từng nhiều lần bị chúng ta phê phán, bác bỏ. Đại thể vẫn là phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của chúng ta, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi, phá rã niềm tin của nhân dân và cán bộ, quy kết là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán, đổ lỗi cho Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng, trong Trung ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể cả Bác Hồ, tìm mọi cách "hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh"... Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Trong bối cảnh tình hình nêu trên, nếu Đảng ta không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Và đó cũng chính là những lý do giải thích vì sao lần này Ban Chấp hành Trung ương phải tiếp tục bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng.
II- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ PHẠM VI CỦA NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4
1- Mục đích, yêu cầu
Đại hội XI của Đảng đã xác định chủ đề và cũng là tư tưởng chỉ đạo cho những năm tới là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và đề ra yêu cầu phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo... tập trung vào 8 nhiệm vụ cơ bản có tính hệ thống, toàn diện. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trước mắt, cần lựa chọn một số vấn đề cấp bách nhất cần tập trung làm ngay để tạo ra được những chuyển biến cụ thể, rõ rệt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn và góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hội nghị Trung ương 4 bàn và ra Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" chính là để đáp ứng yêu cầu đó, nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI của Đảng phần nói về xây dựng Đảng, thực hiện Chương trình toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI.
2- Quá trình và cách thức chuẩn bị Hội nghị Trung ương 4
Nhận thức rõ vị trí và ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị đã tập trung chỉ đạo công việc chuẩn bị một cách rất khẩn trương, nghiêm túc và có bước đổi mới với yêu cầu phải rất cụ thể, thiết thực, khả thi, làm sao chọn đúng vấn đề, xác định đúng trọng tâm, đề ra được những biện pháp tích cực mang tính đột phá để tạo được chuyển biến rõ rệt trong thực tế. Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo chuẩn bị xây dựng Đề án, gồm một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và đại diện lãnh đạo các ban đảng ở Trung ương do đồng chí Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng ban. Ban Chỉ đạo đã thành lập Tổ Biên tập khẩn trương tổ chức nghiên cứu, xây dựng Đề án. Dự thảo Đề án đã được gửi lấy ý kiến đóng góp của các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và một số cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương. Đã tổ chức 4 hội nghị lấy ý kiến của đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, bí thư, phó bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thường trực Ban Chỉ đạo trực tiếp làm việc, nghe ý kiến đóng góp của nhiều đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao, lão thành cách mạng và nhiều đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng có kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng. Bộ Chính trị đã dành 2 phiên họp để nghe Ban Chỉ đạo báo cáo và thảo luận những nội dung quan trọng của Đề án để trình Trung ương.
Tại Hội nghị Trung ương 4, các đồng chí Ủy viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các đề án, báo cáo của Bộ Chính trị. Đã có 202 lượt ý kiến phát biểu ở tổ và Hội trường; nhiều đồng chí gửi ý kiến bằng văn bản hoặc sửa trực tiếp vào dự thảo Nghị quyết. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua nội dung Nghị quyết và ngày 16-01-2012, Nghị quyết đã được ban hành. Tinh thần chung và sự thống nhất rất cao của Trung ương là quyết tâm tạo ra những bước chuyển biến rõ rệt, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng vì sự nghiệp của đất nước, của dân tộc và của Đảng. Như vậy, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 thực sự là sản phẩm của trí tuệ tập thể.
3- Về phạm vi của Nghị quyết
Lần này, Trung ương không bàn toàn diện mà chỉ chọn một số vấn đề cấp bách nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay để tập trung chỉ đạo thực hiện với mong muốn khắc phục những cách làm dàn trải trước đây, tạo ra bước chuyển biến cụ thể, thiết thực trong thực tế. Đó là 3 vấn đề : (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. (3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong 3 vấn đề trên, khi thảo luận có ý kiến hỏi vấn đề nào là trọng tâm, là quan trọng nhất, cấp bách nhất? Có ý kiến cho rằng, bây giờ vấn đề tư tưởng chính trị là quan trọng nhất, vì nó liên quan đến sinh mệnh chính trị của Đảng, đến Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng - tức là vấn đề rất cốt tử. Ý kiến khác lại nói vấn đề ấy là ở trên Trung ương, ở tầm cao, tầm chiến lược, chứ còn ở địa phương, ở cơ sở thì điều nhức nhối là vấn đề suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, vấn đề này quần chúng dễ nhìn thấy. Quần chúng ở cơ sở không mất lòng tin vào Đảng, vào đường lối, mà mất lòng tin vào con người cán bộ cụ thể ở cơ sở, mất lòng tin qua một số hiện tượng như tham nhũng, tiêu cực, suy thoái phẩm chất đạo đức, cho nên phải coi vấn đề đạo đức, lối sống là vấn đề cấp bách nhất. Lại có ý kiến cho rằng, bây giờ nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn là vấn đề cán bộ; con người là quyết định hết thảy. Chúng ta nói mãi mà tổ chức cứ phình ra, bộ máy thì chồng chéo, biên chế thì tăng lên, lương thì bất hợp lý cho nên phải gỡ từ công tác tổ chức, cán bộ. Cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân xác định không rõ, nên nhiều vụ việc không xử lý được vì không ai chịu trách nhiệm; có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thành tích thì nhận của cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể; vì vậy vấn đề phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân là vấn đề cấp bách nhất. Mỗi ý kiến đều có khía cạnh hợp lý, đều quan trọng và cấp bách cả, không thể coi nhẹ vấn đề nào. Tuy nhiên, đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng. Cho nên, 3 vấn đề đã nêu đều quan trọng và có liên quan mật thiết với nhau, nhưng Trung ương thống nhất xác định vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất . Đây chính là khâu đột phá trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng hiện nay, là "mắt xích" chủ yếu mà chúng ta cần nắm lấy, song trong chỉ đạo không được coi nhẹ 2 vấn đề kia."
III- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT
Như trên đã nói, lần này Trung ương đổi mới cách ra Nghị quyết. Bản Nghị quyết được viết ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung cơ bản và quan trọng, có nhiều điểm mới, chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp bách đã được xác định. Trên cơ sở đó, đi thẳng vào đánh giá tình hình, phân tích nguyên nhân, chỉ rõ mục tiêu, phương châm, các giải pháp tiến hành và cách tổ chức thực hiện. Đề nghị các đồng chí đọc, nghiên cứu trực tiếp. Tôi chỉ nhấn mạnh thêm một số điểm :
1- Về đánh giá tình hình và nguyên nhân
Việc đánh giá tình hình thường rất khó, vì nó tuỳ thuộc vào chỗ đứng, góc nhìn, cách nhìn, lượng thông tin có được của mỗi người. Thực tế khi thảo luận ở Hội nghị Trung ương và xin ý kiến đóng góp của một số tập thể và cá nhân, có một số ý kiến cho rằng, Đề án chưa thể hiện tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, còn né tránh, chưa thấy hết mức nghiêm trọng của những yếu kém, khuyết điểm, tình hình nghiêm trọng hơn nhiều. Một số ý kiến khác lại cho rằng, Đề án nêu phần khuyết điểm quá nặng nề, đen tối, tình hình Đảng không đến mức như vậy; nếu xấu như vậy thì tại sao những năm qua chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn mà cả thế giới thừa nhận, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao ? Nói thế nào cho khoa học, đúng mức, không nên tự bôi nhọ mình, để kẻ xấu lợi dụng. Nó đang muốn phá vỡ niềm tin, bôi xấu mình thì mình lại tự làm mất uy tín của mình, như thế thì có khác nào tiếp thêm đạn cho địch bắn.
Trung ương yêu cầu cần phải có phương pháp nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, biện chứng, khoa học, nhìn thẳng vào sự thật, bình tĩnh, không phiến diện, không tô hồng và cũng không bôi đen; chỉ ra cả mặt thành tựu và yếu kém; phân tích toàn diện cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Thực tế có đến đâu nói đến đấy, không nên thổi phồng, cường điệu một mặt nào.
Với những nguyên tắc phương pháp luận đó, Trung ương đã chỉ rõ, trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một Đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng... Trong thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hầu hết ý kiến đề nghị là phải khẳng định mạnh mẽ thành tựu, ưu điểm, bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của Đảng ta. Phải khẳng định phần lớn cán bộ, đảng viên ta rất tốt; nếu không tốt thì làm gì có thành tựu như bây giờ. Thực tế lịch sử không thể phủ nhận được là, hơn 80 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình chính là bằng bản lĩnh, nghị lực; trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho dân tộc; bằng sự hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Tổ quốc ta, dân tộc ta chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay, chưa bao giờ có được vị thế trên trường quốc tế như hiện nay.
Tuy nhiên, Trung ương cũng thẳng thắn vạch ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên cả 3 vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, chỉ ra tính chất, phạm vi, xu thế và hậu quả của những yếu kém, khuyết điểm đó. Phải nói, về tính chất, là nghiêm trọng, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục. Về phạm vi, là tương đối phổ biến, có ở các cấp, các ngành ("một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống"). Về xu hướng, là diễn biến phức tạp, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Về hậu quả, là làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; làm tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Những khuyết điểm đó nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ ta.
Trên vấn đề thứ nhất, Trung ương đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu hiện c ủa sự suy thoái về tư tưởng chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị thể hiện ở chỗ : phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ hoạ theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ : sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc... Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm… ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.
Trên vấn đề thứ hai , Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một số khuyết điểm trong công tác tổ chức, cán bộ. Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa xây dựng được quy hoạch ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Trên vấn đề thứ ba , Trung ương chỉ ra tình trạng không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị và mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho các việc làm tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Về nguyên nhân của yếu kém, khuyết điểm : Trung ương xem xét khá toàn diện, chỉ ra cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Các nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động lẫn nhau, xuyên thấm vào nhau rất phức tạp. Đáng chú ý là :
+ Nguyên nhân về sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, không ít nơi có tình trạng dân chủ hình thức; tập thể là "bình phong" để hợp thức hoá ý kiến của thủ trưởng, mà thực chất là gia trưởng, độc đoán. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện rất kém, thiếu thẳng thắn, trung thực; xuê xoa, nể nang. Trong hội nghị thì nhất trí nhưng ra ngoài nói khác hoặc không thực hiện. Khi đương chức thì không nói hoặc nói kiểu này, khi nghỉ chức vụ hoặc về hưu lại nói kiểu khác. Khi còn phụ trách thì không được góp ý kiến nhưng khi nghỉ hưu, hoặc chuyển công tác thì có rất nhiều đơn, thư tố cáo. Mặt khác, lại có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật; kỷ cương không nghiêm. Có tình trạng vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng, tán phát "tờ rơi", thư nặc danh, đưa tin đồn để nói xấu, đả kích, làm mất uy tín nhau, gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ; thậm chí núp đằng sau xúi quần chúng đấu tranh.
+ Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên. Công tác nghiên cứu lý luận còn bất cập, lạc hậu, chưa giải đáp được nhiều vấn đề lý luận - thực tiễn còn vướng mắc hoặc ý kiến khác nhau. Tình trạng lười học tập hoặc học qua loa, đại khái, học đối phó, học cốt để lấy bằng còn xảy ra khá phổ biến.
+ Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc. ..
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta có thể trả lời được câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao từ trước đến nay, Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng, đã chỉ đạo nhiều cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng nhưng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp . Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân . Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm, mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch, vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân được.
2- Về các nhiệm vụ và giải pháp
Trên cơ sở xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách như đã nêu trên, Trung ương chỉ ra các giải pháp bảo đảm đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp "chống và xây", "xây và chống", tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách nhất. Có 4 nhóm giải pháp : (1) Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên. (2) Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. (3) Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách. (4) Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Tinh thần toát lên trong các nhóm giải pháp đó là cần xác định những việc cần và có thể làm ngay và những việc cần phải có thời gian chuẩn bị, nhất là về xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, để xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện một cách kiên quyết, khả thi, hiệu quả.
Những việc cần và có thể làm ngay là : Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiến hành kiểm điểm, đánh giá, làm rõ trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đẩy mạnh chỉ đạo việc học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giải quyết từng vấn đề cấp bách, những việc cần làm ngay, xác định rõ về công việc, thời gian hoàn thành và người chịu trách nhiệm cụ thể. Nghiêm túc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý dứt điểm một số vụ việc mà dư luận quan tâm; cải tiến, nâng cao chất lượng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với những việc cần phải có thời gian chuẩn bị thì khẩn trương, nghiên cứu, tổng kết, đề xuất để đi đến quyết định và thực hiện. Ví dụ: Phải khẩn trương đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chế độ sinh hoạt Đảng; kiểm tra, giám sát việc tự rèn luyện và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới. Xây dựng quy định cụ thể về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh thực hiện chất vấn trong Đảng. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, gắn với việc tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; có cơ chế giám sát chặt chẽ của tổ chức đảng và nhân dân, kịp thời thay thế những người không hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, bảo đảm cho cán bộ, công chức có mức sống ổn định và có điều kiện để giữ liêm, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi.
Trong các nhóm giải pháp, có một số điểm mới là :
1- Các giải pháp bảo đảm tính đồng bộ, nhưng cũng rất tập trung, có lộ trình, kết hợp "chống và xây", "xây và chống", hướng vào giải quyết ba vấn đề bức xúc nhất, với mong muốn tạo được sự chuyển biến cụ thể, rõ rệt trong thực tế.
2- Nêu cao và rất nhấn mạnh sự tự phê bình và phê bình, sự gương mẫu của cấp trên, của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là cấp trung ương và người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị. Nghị quyết nói rõ là : "Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo". "Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế".
3- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình được quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Nội dung chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết lần này gắn với việc thực hiện 19 điều đảng viên không được làm và việc giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm ở địa phương, đơn vị, ngành mình. Về cách làm thì từng đồng chí cấp uỷ, từng cán bộ, đảng viên phải chủ động, tự giác xem lại mình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, không chờ đến khi tổ chức hội nghị kiểm điểm. Trước khi mở hội nghị kiểm điểm phải chuẩn bị thật kỹ, phải tổ chức lấy ý kiến góp ý của cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp và các đồng chí nguyên là cấp ủy viên cùng cấp. Ủy ban kiểm tra chủ trì phối hợp với ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân vận, văn phòng và các cơ quan liên quan kiến nghị với cấp uỷ (hoặc thường vụ cấp uỷ) nội dung gợi ý kiểm điểm cho tập thể, cá nhân ở những nơi cần thiết. Sau khi kiểm điểm, báo cáo kết quả với cấp trên và thông báo với cấp dưới và các cơ quan lấy ý kiến góp ý. Cấp ủy, tổ chức đảng nào, cán bộ, đảng viên nào kiểm điểm tự phê bình và phê bình không đạt yêu cầu phải kiểm điểm lại; kiên quyết xử lý kỷ luật những cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không tự giác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, không tự nhận sai lầm, khuyết điểm, không khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra. Những trường hợp có vi phạm, tự giác kiểm điểm, tự phê bình nghiêm túc, tích cực sửa chữa, khắc phục, sẽ được xem xét giảm hoặc miễn xử lý kỷ luật. Sau đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương lần này sẽ duy trì nghiêm túc nền nếp, chế độ tự phê bình, phê bình hằng năm gắn với kiểm điểm theo chức trách, nhiệm vụ được giao và lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ, tổ chức đảng có hình thức thích hợp thông báo kết quả kiểm điểm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, đóng góp ý kiến. Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.
Làm tốt việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình sẽ có căn cứ để hiểu rõ thêm cán bộ, đánh giá, xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp uỷ, các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Đồng thời kiến nghị với Quốc hội sớm có hướng dẫn để thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
4- Xúc tiến việc xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý chủ trì cấp trên nói chung phải qua chức vụ lãnh đạo quản lý chủ trì ở cấp dưới.
5- Xây dựng và thực hiện một số quy chế bảo đảm phát huy hơn nữa dân chủ trong Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Triển khai thực hiện việc chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp uỷ các cấp. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định; kê khai phải trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú. Xử lý nghiêm người kê khai không đúng. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban thường vụ cấp uỷ cấp mình.
Ủy ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý trong việc chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước; hằng năm có báo cáo kết quả thực hiện của cán bộ thuộc cấp ủy quản lý trong việc chấp hành quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi.
6- Về công tác cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực sự có hiệu quả, ngăn chặn sự lạm quyền, độc đoán. Sơ kết, rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu cấp uỷ có số dư. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thí điểm việc giao quyền cho bí thư cấp uỷ lựa chọn, giới thiệu để bầu cử uỷ viên thường vụ cấp uỷ; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
7- Về cách triển khai thực hiện Nghị quyết, lần này nhấn mạnh vai trò của đồng chí bí thư cấp uỷ. Đồng chí bí thư cấp ủy, tổ chức đảng phải trực tiếp nghiên cứu, phổ biến, quán triệt Nghị quyết và chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện Nghị quyết tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Phân công một số đồng chí thường trực chỉ đạo. Ở Trung ương gồm Tổng Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí thư, các đồng chí Trưởng Ban Tổ chức, Kiểm tra, Tuyên giáo, Dân vận; ở cấp tỉnh, thành phố và các đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương cũng làm tương tự như vậy.
IV- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" là một nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt. Nghị quyết đã được toàn Đảng, toàn dân rất hoan nghênh và tán thành, coi như đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống chính trị của đất nước. Tuy nhiên, tâm lý chung hiện nay là đang chờ đợi, chờ đợi và hy vọng. Vấn đề quyết định bây giờ là khâu tổ chức thực hiện Nghị quyết. Tinh thần chung của Trung ương là quyết tâm thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện. Bộ Chính trị đã có Chỉ thị và sẽ có Kế hoạch triển khai thực hiện, nêu rõ các yêu cầu, công việc, lộ trình, thời gian, cách thức và các bước tiến hành cụ thể. Tôi chỉ xin lưu ý một số điểm chung sau đây :
- Phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực do mình phụ trách.
- Ngay sau khi kết thúc Hội nghị cán bộ này, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo tiếp thu ý kiến của các đồng chí, hoàn chỉnh và ban hành sớm kế hoạch của Bộ Chính trị về việc thực hiện nghị quyết của Trung ương; chỉ đạo các ban đảng Trung ương tiếp thu ý kiến của Hội nghị để sớm ban hành các văn bản hướng dẫn phù hợp với từng mảng công việc. Căn cứ vào Nghị quyết của Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo hướng dẫn của các ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp ủy và tổ chức đảng các cấp, các ngành phải xây dựng kế hoạch, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, ngành mình. Phải làm rất khẩn trương, nghiêm túc, thiết thực; có sự phân công trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ.
- Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu, người chủ trì phải tự giác, gương mẫu làm trước (ngay sau Hội nghị này, không phải chờ gì cả) tự kiểm điểm, soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình. Mọi đảng viên đều phải làm như vậy, chứ không phải chỉ đứng ngoài mà "phán", hoặc "chờ xem", coi như mình vô can.
- Phải thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp một cách đồng bộ, tổng hợp đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; bao gồm cả việc thực hiện 8 nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, các quy định khác của Đảng và Nhà nước; kết hợp giữa "xây và chống", "chống và xây". Nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái; đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, hư hỏng, tiêu cực; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, cán bộ; công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan chức năng; nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò giám sát của nhân dân, các đoàn thể, của báo chí, công luận.
- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, đạt kết quả cụ thể, thực chất. Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để "đấu đá", "hạ bệ" nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn. Những trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn, không tự giác, tập thể giúp đỡ mà không tiếp thu thì phải xử lý thích đáng. Thái độ nể nang, hữu khuynh, "ngậm miệng ăn tiền" hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình thương yêu đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình. Đây cũng là dịp để hiểu thêm cán bộ, có cơ sở để đánh giá cán bộ, xem xét kết hợp chuẩn bị quy hoạch cán bộ cho thời gian tới.
- Phải đặt việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng trong tổng thể thực hiện các nghị quyết khác của Trung ương, của Quốc hội, của Chính phủ..., nói rộng ra là trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị, bảo đảm thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại... chứ không phải "đóng cửa" để chỉnh đốn Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là để làm cho Đảng ta ngày càng mạnh hơn; cán bộ, đảng viên gương mẫu hơn; tổ chức đảng có sức chiến đấu cao hơn; đoàn kết nội bộ tốt hơn; gắn bó với nhân dân mật thiết hơn; thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả cao hơn; chứ không phải ngược lại.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người, đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Vì vậy, thường rất khó, rất phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những thành quả như ngày nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, trước thực trạng một số yếu kém, khuyết điểm, hơn lúc nào hết, Đảng ta càng phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng như Đại hội XI và Hội nghị Trung ương 4 đã chỉ ra, tạo bước chuyển thực sự trong công tác này. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là : tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại . Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược lại, phải làm rất kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Có khi giải quyết xong vấn đề này lại nảy sinh vấn đề khác, làm được việc này lại xuất hiện việc khác. Nếu không xác định như vậy thì mỗi khi thấy có sự việc tiêu cực trong Đảng dễ mất bình tĩnh, nảy sinh tư tưởng bi quan, hoài nghi, hoặc mất niềm tin, phủ nhận mọi sự cố gắng và kết quả chung.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị cán bộ toàn quốc lần này là những vấn đề rất cơ bản và hệ trọng. Thời gian Hội nghị không nhiều, đề nghị các đồng chí nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung dành thời gian nghiên cứu, thảo luận, góp ý kiến để tạo thống nhất cao trong việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tin tưởng rằng, với truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng ta, với quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, lại được nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin gửi đến các đồng chí lời chúc sức khỏe, hạnh phúc, nhiều niềm tin mới, khí thế mới. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp".
TTXVN

Bi hài kịch - 19 điều đảng viên không được làm

19 điều đảng viên không được làm
TT - Ban Chấp hành trung ương đã ban hành quy định số 47-QÐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Quy định này thay quy định 115 do Bộ Chính trị ban hành năm 2007.
1. Nói, làm trái hoặc không thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Ðảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép.
2. Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Ðảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Ðảng, pháp luật của Nhà nước.
3. Viết bài, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, vu cáo, bịa đặt hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, hồi ký không đúng sự thật.
4. Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, chia rẽ, cục bộ gây mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản ảnh, góp ý kiến đối với Ðảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tùy tiện đối với người khác. Ðe dọa, trù dập, trả thù người tố cáo, phê bình, góp ý.
5. Tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Cùng người khác tham gia viết, ký tên trong một đơn tố cáo. Tổ chức, tham gia kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.
Cố ý gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết.
6. Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.
7. Ðảng viên (kể cả cấp ủy viên và đảng viên là cán bộ diện cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy quản lý) tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội (theo quy định phải do tổ chức Ðảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức Ðảng có thẩm quyền cho phép.
8. Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, lạm quyền, nhũng nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ.
Thiếu trách nhiệm để cơ quan, đơn vị, địa phương do mình trực tiếp phụ trách xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
Có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột thực hiện dự án, kinh doanh các ngành nghề thuộc lĩnh vực hoặc đơn vị do mình trực tiếp phụ trách trái quy định.
Biết mà không báo cáo, phản ảnh, xử lý các hành vi tham nhũng; không thực hiện các quy định về bảo vệ người chống tham nhũng.
9. Làm trái quy định trong những việc: quản lý nhà, đất, tài sản, vốn, tài chính của Ðảng và Nhà nước; huy động vốn và cho vay vốn tín dụng; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu dự án; thực hiện chính sách an sinh xã hội, cứu trợ, cứu nạn; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các quy định trong hoạt động tố tụng.
10. Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định.
Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định.
Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác.
11. Chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành các văn bản trái quy định. Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi.
12. Ðưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái quy định. Ðưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định.
13. Báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản thân không trung thực; kê khai tài sản, thu nhập không đúng quy định; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định; tham gia hoạt động rửa tiền.
14. Tổ chức du lịch, tặng quà, giải trí để lợi dụng người có trách nhiệm dẫn đến việc ban hành quyết định sai, có lợi riêng cho bản thân hoặc tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp mà mình tham gia.
15. Dùng công quỹ để thăm viếng, tiếp khách, tặng quà, xây dựng công trình, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, đi lại, thông tin liên lạc vượt quá tiêu chuẩn, định mức hoặc trái quy định.
Chiếm giữ, cho thuê, cho mượn tài sản, cho vay quỹ của Nhà nước, cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao quản lý, sử dụng trái quy định.
16. Tự mình hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở trong nước hoặc ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
17. Tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; cho vay trái quy định của pháp luật; sử dụng các chất ma túy; uống rượu, bia đến mức bê tha và các tệ nạn xã hội khác.
Vi phạm đạo đức nghề nghiệp; có hành vi bạo lực trong gia đình, vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, sống chung với người khác như vợ chồng; bản thân hoặc để con kết hôn với người nước ngoài trái quy định.
18. Mê tín, hoạt động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói). Lập đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi.
19. Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi.
Theo TTXVN

20 thg 2, 2012

Phía sau câu chuyện “trí thức nhân dân”

QĐND - Chủ Nhật, 19/02/2012, 20:31 (GMT+7)
 
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/5/5/5/176770/Default.aspx
QĐND - Một trong những chủ đề được thảo luận nhiều trên các diễn đàn internet gần đây là câu chuyện về đội ngũ trí thức ở Việt Nam. Không ít ý kiến phản biện khách quan và mang tính xây dựng của một số nhà khoa học về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt Nam đã bị bóp méo một cách nguy hiểm, lộ rõ tính kích động...
Luôn đề cao và phát huy vai trò đội ngũ trí thức 
Trước hết, trong bài viết này, chúng tôi không có ý phản biện những góp ý của một số nhà khoa học tên tuổi trong nước về xây dựng đội ngũ trí thức gần đây mà chủ yếu đề cập nội dung nhiều diễn đàn, tờ báo hải ngoại đã cố tình lợi dụng việc này để xuyên tạc, bóp méo các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đội ngũ trí thức. Chẳng hạn, họ cho rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trí thức Việt Nam "bị mất tác dụng", thậm chí "hiện nay không có đội ngũ trí thức đúng nghĩa". Họ cố tình dựng lên mâu thuẫn giữa Đảng và đội ngũ trí thức khi bịa ra “12 nỗi sợ” của Đảng, trong đó “sợ trí thức” xếp ở vị trí thứ hai. Họ gọi đội ngũ trí thực hiện nay là "Tầng lớp “trí ngủ”(!), vì miếng cơm manh áo mà buông xuôi, làm ngơ với thời cuộc, với vận mệnh đất nước". Từ cái nhìn thiếu thiện chí này, họ kêu gọi cần “sớm giải tán sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức”. Họ đưa ra giải pháp “nâng tầm” trí thức Việt Nam bằng cách coi phản biện xã hội, phản đối bất cập trong chính sách của Đảng, Nhà nước là một trong những nhiệm vụ chính của trí thức. Họ đưa ra cụm từ “trí thức nhân dân”, kêu gọi trí thức hãy tham gia phản biện xã hội thật nhiều, thật mạnh, sớm “phản tỉnh” giống như trí thức ở nhiều nước trên thế giới để chiếm vai trò lãnh đạo... Họ cho rằng dân trí quốc nội hiện nay còn “thấp kém”, chỉ trông mong vào “trí thức minh quân” là những “hiệp sĩ thời đại” sẽ “cứu" cả dân tộc.                 
Xem cách tiếp cận và phân tích của họ thì thấy mục đích của các cuộc thảo luận trên là nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với đội ngũ trí thức. Trên thực tế, ngay từ những thời kỳ trứng nước và non trẻ của cách mạng, trí thức luôn là lực lượng được Đảng ta đánh giá cao và quan tâm, trọng dụng. Nhiều đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước ta có nguồn gốc xuất thân từ trí thức. Ngay trong Chính cương, sách lược vắn tắt 1930, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã nêu rõ về lực lượng cách mạng, Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo quần chúng nhân dân trước hết là công nhân và nông dân, đồng thời phải tranh thủ đoàn kết với các lực lượng khác như tiểu tư sản, trí thức. Ngay sau ngày đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọi đồng bào cả nước tiến cử người có tài, có đức ra gánh vác việc dân, việc nước, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức, kể cả trí thức từ nước ngoài về tham gia kháng chiến, kiến quốc.
Trong suốt quá trình cách mạng, nhất là thời kỳ đổi mới, vai trò đội ngũ trí thức càng được coi trọng. Ngày 6-8-2008, Hội nghị Trung ương 7 khóa X ra Nghị quyết số 27-NQ/TW “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá rõ những mạnh yếu của trí thức cũng như những mặt làm được và chưa làm được trong chính sách xây dựng đội ngũ trí thức và đưa ra nhiều giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Tại cuộc làm việc với Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW gần đây, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận xét: “Đội ngũ trí thức là “vàng ròng” của quốc gia” và mong muốn đội ngũ trí thức tiếp tục có những đóng góp tích cực hơn nữa vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Còn tại Văn kiện Đại hội Đảng XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao; tôn trọng, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các cơ quan khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng, Nhà nước. Có chính sách trọng dụng trí thức, đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”. Ngay cách gọi “đội ngũ trí thức” thay cho “tầng lớp trí thức” trước kia cũng đã thể hiện tư duy mới trân trọng hơn, đánh giá cao hơn về trí thức trong công cuộc đổi mới. Cho dù như chính đánh giá của Đảng ta, quá trình xây dựng đội ngũ trí thức còn có hạn chế nhưng chỉ riêng những điều nêu trên cũng đủ cho thấy lập luận cho rằng Đảng ta xem nhẹ trí thức, kỳ thị, đối lập trí thức là bịa đặt trắng trợn, phi lý.
Phản biện có phải là “sứ mệnh” số một?
Đành rằng vừa qua, việc xử lý thông tin, tiếp thu những ý kiến phản biện xã hội cũng còn những hạn chế nhưng không thể nói, Đảng, Nhà nước ta né tránh, cấm đoán trí thức phản biện xã hội. Càng không thể nói hiện nay do dân trí thấp, trí thức phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phản biện xã hội thì họ mới thực sự là... trí thức của nhân dân. Trên thực tế, chưa bao giờ Đảng, Nhà nước ta có chủ trương chính sách ngăn cấm, hạn chế phản biện xã hội. Như trên đã dẫn, Đại hội XI chỉ rõ: “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Ở đây, cũng cần làm rõ vai trò, sứ mệnh của đội ngũ trí thức. Trước đây, V.I.Lê-nin đã từng khái quát rằng: Trí thức là "tầng lớp xã hội đặc biệt". Nghị quyết hội nghị Trung ương 7 khóa X của Đảng xác định rõ: "Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội" và nhấn mạnh: "Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nhưng dù có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống lao động xã hội nói chung thì cũng không thể đơn giản và tùy tiện như cách hiểu của ai đó coi trí thức ngày nay là lực lượng tiên phong nhất, có khả năng lớn nhất giữ vai trò "ngọn cờ" của cách mạng xã hội, là những "hiệp sĩ thời đại" có thể dẫn dắt, cứu cánh cả dân tộc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Một số người cho rằng, người lao động trí óc sẽ chưa đạt tầm của một trí thức nếu chỉ biết làm công việc chuyên môn mà chưa bộc lộ được năng lực phản biện xã hội cũng chưa đầy đủ. Thật ra, phản biện xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng của trí thức nhưng không phải là nhiệm vụ chủ yếu nhất, bao trùm nhất. Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Có nhiều câu hỏi nóng bỏng từ thực tiễn xã hội đòi hỏi khơi nguồn trí thức và sáng tạo chờ đợi người trí thức. Không thể quan niệm một cách phiến diện chỉ có phản biện đối với đường lối, chính sách mới là đóng góp cao nhất của trí thức. Về vấn đề này, Giáo sư Ngô Bảo Châu khi trả lời phỏng vấn của báo chí gần đây cho rằng: “Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như tiêu chí để được phong hàm “trí thức”(...). Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội(...). Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội. Học hàm, học vị không thể bảo đảm rằng cái anh nói ra là mặc nhiên đúng. Cá nhân tôi thường tránh bàn luận các vấn đề mà tôi không biết rõ. Tôi quan tâm nhiều hơn tới những lĩnh vực mà tôi có thể trực tiếp tham gia hành động thay vì chỉ nêu ý kiến. Nhưng tôi cho rằng việc đưa ra các phản biện có lập luận chặt chẽ là những đóng góp lớn cho xã hội, cho đất nước của giới trí thức. Tuy nhiên, trước khi lên tiếng về một vấn đề nào đó, người trí thức hơn ai hết cần phải hết sức ý thức về ảnh hưởng của nó”.
Thực tế cho thấy, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế tiếp thu phản biện xã hội của giới trí thức. Nhưng không vì thế mà nói rằng, Đảng, Nhà nước ta không tôn trọng, không lắng nghe các phản biện này. Có những vấn đề được xử lý, trả lời trực tiếp nhưng cũng có những nội dung được xử lý gián tiếp, có nội dung được xử lý theo những quy trình, hệ thống cơ quan chức năng. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, cũng cần phân biệt rạch ròi giữa phản biện xã hội với lợi dụng phản biện để kích động, chống đối. 
Về lý thuyết cũng như trên thực tế hoàn toàn không có sự mâu thuẫn giữa con đường, mục tiêu của đội ngũ trí thức đối với con đường cách mạng của Đảng thì không có lý do gì phải tách rời sự lãnh đạo của Đảng với đội ngũ trí thức để đội ngũ ấy trở thành những “trí thức nhân dân” như ai đó đưa ra. Việc cần làm hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa các chính sách và hành động thiết thực để xây dựng đội ngũ trí thức để họ được phát huy, tỏa sáng và cống hiến nhiều hơn cho đất nước.
Nguyễn Văn Minh

19 thg 2, 2012

Quá độ cho tự do báo chí


(Tamnhin.net) - Nếu không có Tiên Lãng, rất có thể sự bức xúc trong Đảng vẫn chỉ là những trăn trở cảm tính, chứ chưa thể xuất hiện những nhân tố, con người lãnh đạo mà đã tạo nên một bước ngoặt cho tự do báo chí trong thời gian qua, trọn vẹn hơn trong thời gian tới. 

Không cần quyên góp cho “phạm nhân lương tâm”?

NVM - một độc giả đã lại hoài nghi đầy ẩn ý: “Liệu gia đình Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý có khó khăn đến mức cần được quyên góp?”. Những ẩn ý ấy, kèm theo lời bình lạnh lẽo trong blog của độc giả này, thật giống như gáo nước lạnh dội lên bầu máu nóng chia sẻ tràn đầy chân thành của hàng triệu độc giả khác trong cả nước, vào những ngày mà Giáo Dục Việt Nam đã trở thành tờ báo đầu tiên ở nước ta làm được một loại việc hết sức đặc biệt: vận động tài chính và giúp đỡ gia đình của người “phạm nhân lương tâm”.

Vậy cái gì đã biểu hiện cho sự thật, và ai là người đại diện cho sự thật trong hoàn cảnh này? 1% hay 99% - hiểu theo cách nói tượng trưng của Phong trào “Chiếm Phố Wall”?

So sánh trên có lẽ đã được chứng thực trong thực tiễn của phản ứng xã hội. Từ ngày xảy ra bi kịch ở khu đầm thủy sản xã Vinh Quang đến nay, trong dư luận đã chỉ xuất hiện một ý kiến - trái ngược hoàn toàn với gần 1.000 bài báo và hàng trăm ngàn ý kiến thể hiện sự đồng cảm đối với điều được gọi là tình người.

Khó có thể hiểu khác hơn khi những tờ báo VN cũng đang cố gắng gìn giữ những mảng tình người còn sót lại trong một xã hội đang xuống cấp quá trầm trọng về đạo đức nhân sinh. Quyên góp và cứu trợ chỉ là một hành vi thông thường trong mọi xã hội, mọi chế độ, nhưng không phải bao giờ và trong hoàn cảnh nào cũng được thể hiện nếu không phát xuất từ một điều gì đó mang tính chân lý, và với một dũng khí đủ để vượt qua giới hạn trên của vô số sợ hãi mơ hồ bị đè nén bấy lâu nay.

Không phải đơn giản khi chỉ nhìn vào sự việc và mô tả nó. Những bài điều tra, bình luận, phỏng vấn, đúc kết của báo chí đã thể hiện trên hết là tấm lòng, là nỗi đau cộng hưởng cùng cái đau của nhân thế. 

Nhưng cũng cần phải nói thêm với không ít xấu hổ rằng, những tờ báo dám lên tiếng đã làm thay cả phần trách nhiệm lương tâm cho vài ba tờ báo quan niệm “Im lặng là khôn ngoan” trong vụ việc Tiên Lãng. 

Quá độ cho tự do báo chí

Tiên Lãng đã trở thành một cái mốc đầy ý nghĩa cho hai sự thay đổi: một biến đổi thuộc về hành động “tức nước vỡ bờ” của một gia đình nông dân đối với trào lưu trưng thu đất đai, và hai là lần đầu tiên kể từ sự kiện Thái Bình năm 1997, báo chí có được tiếng nói riêng của mình, ít nhất về chuyện cưỡng chế đất đai.

Nếu chịu khó nhớ lại, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra trong không ít vụ việc cưỡng chế tương tự như tại Tiên Lãng, đã xảy ra ở Bắc Giang, Nam Định, Nghệ An, An Giang, Bình Phước, Đồng Tháp, Tiền Giang, TP.HCM…, và ngay tại Thủ đô Hà Nội, bầu không khí chung của báo chí là rất trầm lắng, trầm mặc đến vô cùng khó hiểu. Thảng hoặc, một vài cái tin nho nhỏ nào đó chỉ đủ để đáp ứng cho nhu cầu tối thiểu được thông tin của người đọc, chứ chẳng đủ sức khuấy động và tạo nên tác động chuyển dời tính chất, chưa nói đến bản chất của vụ việc. Phong trào cưỡng chế thu hồi đất vì thế cứ tiếp tục phát triển cái khía cạnh “luật rừng” của nó, từ bồi hoàn thấp đến không bồi hoàn, từ không bồi hoàn đến cưỡng chế bất chấp pháp luật…

Ngay đối với Tiên Lãng - một vụ việc với kịch tính lên đến cao trào, người ta đã phải tự hỏi: nếu báo chí không lên tiếng thì liệu người dân xã Vinh Quang có được “vỡ òa niềm vui”? Câu trả lời gần như chỉ có một: nếu mọi tờ báo đều chọn phương cách câm lặng như một hành xử “chính trị” nhất, thì Thủ tướng đã chẳng biết và đã chẳng thể can thiệp, lấy lại công bằng phần nào từ tình trạng bất công gần như không còn rào cản.

Thế mới biết là tiếng nói của báo chí quan trọng đến chừng nào. Thế mới biết là chỉ cần có sự quan tâm và “quán triệt tư tưởng” của một vài cấp lãnh đạo cao cấp trong Đảng, tình thế đã xoay chuyển đến bất ngờ. Để từ đó, báo chí bất thần biến thành một dòng thác công luận, tuôn trào dữ dội từ cái van xả lũ đã được xoay ngược chiều kim đồng hồ, dù chỉ với độ xoay “khiêm tốn”.

Quá độ của tự do báo chí cũng bắt đầu từ đây - có thể lấy mốc đầu năm 2012 như một thời điểm đổi thay có tính quyết định. Để bù đắp cho những năm tháng nào đó đã phải âm thầm lắng vào cảnh im lặng không đáng phải nhận, khi báo chí đã bị oan uổng từ nhiều lời trách cứ của dư luận.

Nhưng chính xác, tự do báo chí, một cách thực chất chứ không phải chỉ trên danh nghĩa, cũng là điều mà Đảng cần đến, cần đến như một tác năng quan yếu nhằm trên hết phục vụ cho công cuộc chỉnh đốn Đảng và làm giảm nguy cơ đối với “sự tồn vong của chế độ” - như tâm trạng đầy bức trở của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Có một cái nhìn có vẻ rất ngược ngạo, nhưng lại đáng xem xét thấu đáo: thật quá bất hạnh cho gia đình Đoàn Văn Vươn; nhưng lại thật may mắn vì có… Tiên Lãng. 

Bởi thật đơn giản là nếu không có Tiên Lãng, rất có thể sự bức xúc trong Đảng vẫn chỉ là những trăn trở cảm tính, chứ chưa thể xuất hiện những nhân tố, con người lãnh đạo mà đã tạo nên một bước ngoặt cho tự do báo chí trong thời gian qua, trọn vẹn hơn trong thời gian tới.


Viết Lê Quân

18 thg 2, 2012

Vì sao ông Nguyễn Phú Trọng không lên tiếng về vụ việc ở Tiên Lãng?

Lê Anh Hùng
Vụ cưỡng chế thu hồi đất của chính quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đối với gia đình anh Đoàn Văn Vươn vừa qua đang thu hút sự chú ý đặc biệt của công luận cả ở trong nước lẫn ngoài nước. Tuy nhiên, điều khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên là một vụ việc gây xôn xao dư luận như thế, đặt ra những vấn đề hệ trọng liên quan đến nền tảng của chế độ như thế mà ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư BCHTW Đảng CSVN, lại im như thóc, tuyệt nhiên không hề hé răng lấy nửa lời, mặc dù ông vẫn đang kêu gào thống thiết về cái gọi là “chỉnh đốn Đảng”.
Lẽ dĩ nhiên, ở đời thì cái gì cũng có nguyên do của nó cả. Và những lý do dưới đây dường như là lời giải thích hợp lý nhất cho thái độ “ngậm hột thị” của ngài TBT:
1. Ông không tin vào vụ việc ở Tiên Lãng:
Trong buổi làm việc với Trung ương Hội Nông dân Việt Nam ngày 13/9/2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã nhận xét: "Nhiều khi tôi vẫn nói đùa là ở trên này nghe rất nhiều chuyện đau đầu nhưng về với nông dân là thấy khác. Không phải được tất cả mà cơ bản là được." [1]
Từ đó mà suy, ông sẽ cho rằng những vụ việc như ở Tiên Lãng, Hải Phòng kia chắc chắn là do các “thế lực thù địch” dàn dựng để bôi xấu chế độ XHCN ưu việt, chứ nông thôn Việt Nam ở “thời đại Hồ Chí Minh” thì “về cơ bản là được”, quyết không thể xảy ra những chuyện động trời như thế.
2. Ông vẫn đang nghiên cứu Luật Đất đai một cách thận trọng, kết quả nghiên cứu thế nào ông sẽ bàn giao cho TBT khoá sau để… nghiên cứu tiếp:
Cũng trong buổi làm việc với Trung ương Hội Nông dân nói trên, khi đề cập đến các kiến nghị, đề xuất của Hội Nông dân, ông Tổng Bí thư khẳng định là có nhiều việc sẽ còn phải nghiên cứu tiếp thu, không thể giải quyết nhanh được. Chẳng hạn, vấn đề sửa Luật đất đai sẽ cần phải được nghiên cứu thận trọng. Nhiều vấn đề đang còn tranh luận, chẳng hạn, khái niệm về sở hữu toàn dân... Cho dù Quốc hội đã nhiều lần đề xuất đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhưng thảo luận mãi vẫn chưa chốt lại được.[2]
Khiếu kiện liên quan đến đất đai mới chỉ chiếm 70% số vụ khiếu kiện thôi nhé, chưa việc gì phải cuống quýt lên như thế!
3. Ông không muốn sửa đổi Luật Đất đai, vì sợ “sửa rồi mai kia lại vênh”:
Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do BCHTW Đảng khoá X trình Đại hội Đảng CSVN lần thứ XI (1/2011) nêu rõ, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Tại Đại hội, khi nhiều đại biểu đưa ra ý kiến phản bác “đặc trưng” ấy, và đòi trở về với định nghĩa trong Văn kiện Đại hội X (2006) là “có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên nền sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” thì ngài GS.TS chuyên ngành “xây dựng Đảng” lại biện bạch thế này: “Những vấn đề đã rõ, đã chín, đã được thực tiễn chứng minh là đúng và đã có sự thống nhất tương đối rồi thì hãy sửa. Còn những vấn đề nào chưa đủ rõ, chưa đủ chín, thực tiễn còn đang vận động, ý kiến còn khác nhau thì xin phép chưa sửa đổi, sửa rồi mai kia lại vênh.”[3]
Rõ ràng, với tư cách là người từng đảm trách cương vị Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương và giờ đây là Tổng Bí thư BCHTW Đảng, hơn ai hết, ông là người hình dung ra rõ nét nhất hình hài của CNXH ở Việt Nam. Chính vì thế mà ông sợ rằng một khi CNXH đột ngột hiện ra, khiến nhân dân Việt Nam không kịp trở tay, thì Luật Đất đai đã sửa đổi kia sẽ “vênh” với một nguyên lý chủ đạo của CNXH như tổ sư Marx của ông đã từng phán. Và việc ông không muốn sửa đổi Luật Đất đai, hay không muốn sửa đổi Dự thảo Văn kiện Đại hội XI của Đảng như đã nói ở trên, chính là sự thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo tài ba xưa nay hiếm. Nếu ai đó nhận định rằng đất nước chúng ta đang đi trên một cỗ xe không phanh với một người lái không biết lùi mà cứ băm băm lao vào một tương lai đầy rủi ro thì hoặc là hàm hồ hoặc là đang “tự diễn biến” đấy.
Hiện nay, khi mà vụ việc ở Tiên Lãng đang khiến cho ý chí của ngay cả một đảng viên trung kiên nhất cũng phải lung lay, khi mà nền kinh tế nước nhà thường xuyên lạm phát vào hàng quán quân Châu Á, khi mà bối cảnh khu vực và thế giới đang biến chuyển nhanh chóng và khó lường, con thuyền đất nước quả rất cần một “người cầm lái vĩ đại” như ông./.
L. A. H.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN.
Ghi chú:
[1] Báo Vietnamnet ngày 13/9/2011: Tổng Bí thư: Sửa Luật Đất đai cần thận trọng (vietnamnet.vn).
[2] Báo Vietnamnet ngày 13/9/2011: Tổng Bí thư: Sửa Luật Đất đai cần thận trọng
[3] Báo Pháp Luật Tp HCM ngày 19/1/2011: Biểu quyết về công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu: Còn tranh luận thì chưa vội sửa (phapluattp.vn).

Góp ý cho Viện Toán Cao Cấp


GS. Neal Koblitz
Gửi cho BBCVietnamese.com từ Hoa Kỳ

Có bốn lý do căn bản để Việt Nam cần hỗ trợ nghiên cứu toán học cả lý thuyết lẫn ứng dụng.
1. Toán học đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Toàn bộ lĩnh vực toán học đều liên quan chặt chẽ với nhau, vì vậy thật khó dự đoán nhánh nào sẽ tạo ra lợi ích kinh tế quan trọng nhất trong tương lai. Ví dụ, tôi được đào tạo theo một ngành rất trừu tượng của toán ở Đại học Princeton, và giảng viên phụ trách luận án của tôi chưa từng làm những vấn đề ứng dụng. Tuy vậy, 10 năm sau khi nhận bằng tiến sĩ, tôi bắt đầu áp dụng kiến thức vào lĩnh vực an ninh máy tính và dữ liệu. Suốt một phần tư thế kỷ qua, toàn bộ công việc của tôi là trong những lĩnh vực ứng dụng.
Tương tự, nhà toán học nổi tiếng Hoàng Tụy nhận bằng tiến sĩ toán thuần túy ở Moscow, hợp tác với những nhà toán học Liên Xô chưa bao giờ làm ứng dụng. Nhưng sau này, ông có đóng góp tiên phong về lĩnh vực tối ưu hóa, tìm kiếm những phương thức hiệu quả nhất để tổ chức các nhiệm vụ hậu cần trong sản xuất, vận tải và liên lạc.
2. Toán học đóng vai trò trung tâm trong văn hóa nhân loại. Toán - như âm nhạc, nghệ thuật, văn học - là ngôn ngữ của tư duy và văn hóa con người. Khi một thanh niên từ Việt Nam giành huy chương Olympic toán học - ví dụ như khi Ngô Bảo Châu được huy chương vàng hai năm liền ở tuổi 16 và 17 - người Việt rất tự hào. Đúng thôi, vì nó có nghĩa là đất nước có danh tiếng cao về toán, và nó chứng tỏ thế hệ trẻ sẵn sàng đóng góp chủ chốt cho kiến thức toán học của thế giới.
Ngược lại, một đất nước không có đóng góp độc đáo cho toán cũng giống như một nước không có nền âm nhạc, nghệ thuật hay văn học của riêng mình.

3. Việt Nam vốn đã có truyền thống mạnh để tiếp tục phát triển. Ở Việt Nam, toán đã có từ thời xa xưa. Hơn 500 năm trước, cái tên Lương Thế Vinh đã được vinh danh trong Văn Miếu. Hơn 60 năm trước, trong cuộc chiến đánh Pháp, Việt Minh ấn hành một sách giáo khoa hình học của Hoàng Tụy để dùng trong vùng giải phóng. Tôi chưa thấy có nơi nào mà nhà xuất bản du kích trong rừng lại in một sách về toán! Và dĩ nhiên, ví dụ gần đây nhất về truyền thống toán học của Việt Nam là giải Fields dành cho Ngô Bảo Châu năm 2010.
4. Một cộng đồng nghiên cứu toán mạnh sẽ thúc đẩy giáo dục về toán. Tại Mỹ, chúng tôi dùng chữ "gateway" (cổng vào) để chỉ toán học vì người trẻ cần được đào tạo tốt về toán để có thể vào học và thành công ở một trong bốn lĩnh vực (khoa học, công nghệ, kỹ sư và toán). Cải thiện giáo dục toán học ở mọi mức độ - tiểu học, trung học, đại học, sau đại học - là rất cần cho phát triển kinh tế và công nghệ của một quốc gia.
Bây giờ chúng ta cần đặt một câu hỏi khác: Việc chính phủ hỗ trợ cho Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán (VIASM) có phải là cách hiệu quả để phát triển toán học?

VIASM trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, có con dấu và tài khoản riêng.
Cụ thể là, làm sao để tiền bạc không bị lãng phí, và Viện không trở thành một thứ đồ triển lãm cao cấp mà không có mấy lợi ích cho đất nước?
Tôi rất lo ngại nguy cơ lãng phí tiền chính phủ cho những dự án hào nhoáng nhưng không hiệu quả. Ví dụ, tôi đã mạnh mẽ chỉ trích đề nghị của Nhóm Chuyên trách về giáo dục Việt Nam – Hoa Kỳ muốn chính phủ Việt Nam dành 100 triệu đôla cho một liên hợp các trường Mỹ để họ xây một đại học "kiểu Mỹ" ở miền Nam.
Tôi cũng phản đối cái gọi là "chương trình cao cấp", tức là chính phủ Việt Nam trả bộn tiền cho các giáo sư Mỹ có vài tháng ở Việt Nam dạy các khóa đại học nâng cao. Ở cả hai trường hợp, tôi cho rằng tiền cần dùng để cải thiện lương bổng, điều kiện làm việc, cơ sở vật chất ở Đại học Quốc gia và các đại học công.
Tương tự, tôi tin rằng với VIASM, tiền chủ yếu cần được dùng ở Việt Nam. Ngoại trừ các trường hợp hiếm hoi, Việt Nam không nên trả tiền hậu hĩnh cho người nước ngoài và không nên đài thọ vé máy bay cho họ.
Các nhà toán học thỉnh giảng nên dùng ngày nghỉ của mình và tiền của chính phủ nước họ. VIASM nói chung chỉ nên có sự giúp đỡ mang tính địa phương - ví dụ một phòng trọ trong nhà khách. Ngược lại, VIASM nên rộng lòng cung cấp thời gian nghỉ để nghiên cứu cho các giáo sư đại học Việt Nam. Nghiên cứu của họ có thể được hỗ trợ nhờ thời gian không phải giảng dạy và môi trường nghiên cứu rất tốt ở VIASM.
Để không phí tiền, người ta cần tránh một sai lầm nữa. VIASM không thể trở thành một tổ chức cao cấp tách rời thực tế Việt Nam. Tại nhiều nước, các viện kiểu này dành tài nguyên để tạo quan hệ và uy tín quốc tế, chứ không tham gia mấy vào sự phát triển nội tại của đất nước.
Ví dụ tại Mexico, viện CINVESTAV (Trung tâm nghiên cứu cao cấp) bị chỉ trích vì thiếu quan hệ, cũng như hỗ trợ các khoa học gia Mexico ở các viện khác. Hai năm trước, CINVESTAV tổ chức một hội nghị quốc tế thuộc lĩnh vực của tôi, và sau đó tôi mới biết các đồng nghiệp ở các đại học khác của Mexico không được mời hay thậm chí biết về hội nghị.
Nguy cơ xa rời thực tế là có thật trừ phi có những biện pháp ngăn chặn cụ thể. Có nhiều cách để VIASM hòa nhập với giáo dục và ngành nghề vì lợi ích của Việt Nam.
1. Hỗ trợ toán ở đại học. VIASM nên làm việc chặt chẽ với mọi đại học công để giúp khoa toán cải thiện trình độ nghiên cứu và giảng dạy. Viện nên giúp các giảng viên có cơ hội nghỉ phép để làm nghiên cứu. Ngoài ra, khi các nhà toán học Việt Nam lấy bằng tiến sĩ ở nước ngoài, VIASM có thể đóng vai trò quan trọng giúp thu hút họ quay về. Đầu tiên là trải qua một năm tại Viện, và sau đó về với khoa toán của một đại học công. Bằng cách này, VIASM có thể thúc đẩy đại học và ngăn chặn "chảy máu chất xám".
Các nhà toán học hàng đầu có quan hệ với VIASM cần vận động chính phủ cải thiện điều kiện cho Đại học Quốc gia và các đại học công. Cố gắng tăng tiền cho VIASM chỉ nên là ưu tiên thấp hơn so với cố gắng nâng cao điều kiện làm việc ở các đại học.
2. Cải thiện việc dạy toán ở mọi mức độ. VIASM nên tạo quan hệ với sinh viên đại học, học sinh cấp hai cũng như người học sau đại học, và tư vấn cho chính phủ về việc đào tạo giáo viên và chương trình học.
3. Khuyến khích giới trẻ đi vào toán học. VIASM nên tổ chức các chương trình đặc biệt cho những bạn trẻ có thành tích thi toán quốc gia, quốc tế để thu hút họ làm việc trong ngành toán và khoa học cơ bản. Quá nhiều những học sinh như thế rốt cuộc đi làm kinh doanh và lãng phí tài năng.
4. Ủng hộ bình đẳng giới trong toán học. Phụ nữ Việt Nam xuất hiện cực kỳ ít trong ngành toán. VIASM cần hợp tác với Hội Phụ nữ Việt Nam để tổ chức các chương trình đặc biệt cho những bạn nữ có khả năng về toán.

Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán được thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 2010 Quyết định số 2342/QĐ của Thủ tướng Chính phủ.
5. Hợp tác với các ngành nghề. VIASM nên khuyến khích giới làm toán tham vấn cho các ngành nghề, và đồng thời cũng phải kiểm soát chất lượng tư vấn. Nghĩ là việc áp dụng toán trong ngành công nghiệp phải dựa trên nền tảng khoa học vững chắc. Công chúng và những lãnh đạo ngành không nên bị đưa cho bức tranh phóng đại về khả năng của toán học.
Nhiều nhà toán học đặt nhiều hy vọng vào Viện Toán Cao Cấp dưới sự lãnh đạo của Ngô Bảo Châu. Chúng tôi đã để ý nhiều điểm so sánh giữa Ngô Bảo Châu và nhà toán học huyền thoại Trung Quốc S. S. Chern. Khi ông này làm giám đốc Viện Nghiên cứu Toán ở Berkeley của Hoa Kỳ, ông đã làm việc không mệt mỏi và thành công trong phát triển toán học ở Trung Quốc. Chúng tôi tin rằng Ngô Bảo Châu, giống như ông Chern, sẽ chứng tỏ là một nhà quản lý hành chính tài năng và cũng là nhà toán học xuất sắc.
Khi ta xem triển vọng cho toán và khoa học ở Việt Nam, có nhiều vấn đề trầm trọng nhưng cũng có lý do hy vọng. Chỉ cần nhắc một trong những bức xúc, các giáo sư đại học hầu như chẳng bao giờ gặp sinh viên bên ngoài giờ hành chính hay những dự án đặc biệt. Họ thường làm thêm và không có thời gian, và thường cũng chẳng có văn phòng riêng. Đây là một hệ quả của lương thấp và cơ sở vật chất tồi ở các đại học công.
Nhưng cũng có lý do để hy vọng. Giới trẻ Việt Nam được tiếng trên trường quốc tế là chăm chỉ và được chuẩn bị tốt. Ngay cả trong thập niên 1970, khi tôi lần đầu gặp sinh viên Việt Nam ở Moscow, người Nga luôn ca ngợi họ thuộc số giỏi nhất trong các sinh viên nước ngoài ở Liên Xô. Các gia đình Việt Nam đặt ưu tiên cho giáo dục và đã truyền lại tiêu chuẩn cao cho thế hệ đi sau.
Các giáo viên Việt Nam cũng đều rất tận tụy và nỗ lực. Việt Nam có nguồn nhân lực tuyệt vời để dựa vào. Nếu các lãnh đạo chính quyền và khoa học sử dụng tiền khôn ngoan, họ có thể thúc đẩy những tiến bộ lớn trong giáo dục, khoa học và công nghệ.

Tiến sĩ Neal Koblitz hiện là Giáo sư Toán ở Đại học Washington, Hoa Kỳ.Bài viết gửi riêng cho BBCVietnamese.com, do Lê Quỳnh biên tập và dịch.