31 thg 10, 2011

Ông Nguyễn Đình Hương: "Dùng kẻ dốt thì dễ sai khiến"

- Công tác cán bộ đang là vấn đề trung tâm, bức xúc và nóng bỏng hiện nay. Bởi nếu không trọng dụng nhân tài, nước ta không thể theo kịp các nước xung quanh... Đó là những chia sẻ của ông Nguyễn Đình Hương, nguyên phó ban Tổ chức TƯ về vấn đề này.

Người tài không thiếu
 
Là người làm công tác tổ chức nhiều năm, ông định nghĩa thế nào là người tài?

Người tài trước hết phải là người có trí tuệ, tư duy, năng lực, tầm nhìn... và phải có những đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Nhân tài là phải được xã hội tôn vinh. Như ông Kim Ngọc, bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, giỏi lắm chứ, lưu lại tiếng thơm cho mai sau. Có những người chức vụ rất cao nhưng nhân dân không tôn trọng. Có những người chức vụ không cao nhưng nhân dân rất tôn vinh, xã hội rất kính trọng.
 
a
"Bổ nhiệm cũng dễ có tiêu cực"
Theo ông, hiện nay có thiếu người tài không?

Người tài thời nào cũng có. Trong chiến tranh người tài nổi lên rất rõ vì không có người tài làm sao đánh thắng thực dân Pháp, thắng đế quốc Mỹ được. Bây giờ trong cơ chế thị trường cũng có nhiều người tài chứ. Không thì làm sao có những doanh nghiệp giỏi được. Anh em người ta cũng phải bươn chải từ khi mở cửa đến giờ. Tôi có ông bạn người cùng làng, ông Nguyễn Trần Bạt, giỏi lắm, đúng là một kho tri thức. Tôi cho rằng, người tài không thiếu. Vấn đề là chưa được trọng dụng.

Bổ nhiệm cũng dễ có tiêu cực
 
Tại sao lại chưa được trọng dụng trong khi chúng ta vẫn nói người tài là nguyên khí của quốc gia?
 
Theo tôi từ khi mở cửa, cơ chế quản lý cán bộ của ta vẫn làm theo nếp cũ. Thời bình khác với thời chiến chứ. Vừa rồi ra chỉ thị 37, bí thư, phó bí thư tỉnh, chủ tịch tỉnh... tính từng tháng làm căn cứ để tái cử hay thôi. Bộ trưởng có những ông đang có uy tín, đang làm rất tốt nhưng lại không được tái cử chỉ vì quá tuổi. Lấy cái rào cản đó để gạt một phát như là đong gạo thế là không ổn. Người tài, kẻ dốt đều nhốt vào một rọ thì rõ ràng là không biết cách sử dụng người tài.
Năm nay tôi đã 82 tuổi, hơn 55 năm công tác ở Ban Tổ chức TƯ, chuyên trách về công tác cán bộ và trên 20 năm giúp việc cho đồng chí Lê ĐứcThọ, tôi rút ra được 5 điều cơ bản về công tác cán bộ:

- Bảo vệ Đảng đồng thời phải bảo vệ cán bộ, đừng để oan sai, đừng thành kiến. Phải giúp họ để ngăn chặn những cái dễ phạm sai lầm từ chuyện nhà ở, vợ con, gia đình, đất đai...

- Phải chịu khó nghe nhiều ý kiến của dân, của cấp dưới, của bản thân người cán bộ đó;

- Muốn nghiêm với cán bộ cấp dưới thì phải nghiêm khắc với chính mình.

- Đừng vì lợi ích cá nhân mà bỏ lọt nhân tài.

- Làm công tác tổ chức nếu được lòng mọi người thì chưa hẳn là người tổ chức tốt mà phải bảo vệ cái đúng, đấu tranh với cái sai.
 
Hiện chúng ta chọn cán bộ theo cơ chế bầu cử, bổ nhiệm và thi tuyển?
 Bầu cử mới chỉ có lấy phiếu tín nhiệm thôi. Bỏ phiếu thì cũng có người công tâm, có người do cảm tình cá nhân, thiếu gì cách lấy phiếu. Căn cứ vào đó để đánh giá người giỏi cũng chưa hẳn là đúng. Sinh ra các cơ quan tổ chức làm gì, các cơ quan tham mưu làm gì nếu không đánh giá được cán bộ, người tài với người không có tài.

Còn bổ nhiệm cũng dễ có tiêu cực. Trong một ngành có rất nhiều cán bộ như thế ai xứng đáng làm thứ trưởng, bộ trưởng, đáng lẽ phải thi tuyển, phải cạnh tranh. Ta hiện nay tuy thực hiện cơ chế tập thể nhưng chọn người tài còn lệ thuộc vào ý kiến của một nhóm người nhất định.

Dùng được người tài không dễ
 
Có ý kiến cho rằng, người tài ít được trọng dụng vì người ta không muốn dùng người giỏi hơn mình?

Dùng kẻ dốt thì dễ sai khiến. Dùng người giỏi thì hay cãi, lại nhiều ý kiến. Đã là người tài thường có 4 cái tự: Tự kiêu, tự trọng, tự lập và tự do. Cơ chế như hiện nay chưa có nhiều yếu tố để chọn người tài.

Theo ông hạn chế của việc tìm người tài là ở đâu?
 
Cơ chế chọn nhân tài của ta có khi vẫn lệ thuộc người lãnh đạo chủ chốt. Họ có công tâm hay không? Đấy là tôi còn chưa kể đến việc chạy chức chạy quyền. Đây là tệ nạn tai hại nhất. Người không có tài mới phải chạy chức chạy quyền. Người có tài họ không cần chạy, họ có cái cao thượng, tự trọng, cái gì giao thì họ làm, không thì thôi.

Chẳng ai nhận mình không có tài cả, được bổ nhiệm vào chức đó là phải có tài gì đấy?

Tôi không nói tới những cái tài tầm bậy tầm bạ. Nhân tài là phải được phát hiện và thử thách trong thực tế, không phải chỉ nói mồm.

Cứ cắm xuống đất rồi bỏ đấy thì ăn thua gì

Nhưng nếu có tài thì bằng cách này hay cách khác anh cũng sẽ tự khẳng định được mình?
 
Cái đấy là chủ quan của họ thôi. Anh có tài vứt ra đường cũng không chết. Nhưng muốn đào tạo họ thành người quản lý của một đất nước hay trong một lĩnh vực nào đó thì phải giúp họ. Không phải ai cũng thành người tài được. Thứ nhất là do bẩm sinh. Thứ hai là được học hành đến nơi đến chốn. Và thứ ba là phải có đất phát triển, tức là phải được giao việc đúng, đãi ngộ đúng. Vấn đề không phải là cho họ cái nhà, biệt thự, mà quan trọng là sử dụng họ thế nào để đóng góp được cho đất nước.

Nhật Bản họ tìm người tài trong các trường đại học, lọc ra vài nghìn người, cho vào các cơ quan quản lý nhà nước, tập dượt quản lý để trưởng thành lên. Cũng như trồng cây, phải biết chăm sóc, vun trồng thì nó mới có hoa, mới tạo ra được vườn hoa đẹp, chứ cứ cắm xuống đất rồi bỏ đấy thì ăn thua gì, nó có lên được đâu.

Và hiện đã có tình trạng người giỏi ra khỏi cơ quan nhà nước?
 
Nhiều người ra làm tư nhân vì trong cơ quan nhà nước không thể phát huy cái tài của họ. Các cháu tôi đi học nước ngoài về đều làm cho nước ngoài, bởi họ đòi hỏi cường độ lao động cao, trả lương cũng cao, điều hành khoa học... nên có điều kiện để phát triển. Người trẻ họ thích những điều đó. Lương cao là một phần, cái chính là năng lực của họ được thể hiện, được tiếp cận với những cái tiến bộ.

Vậy còn vấn đề trách nhiệm, để người giỏi đi là lỗi tại ai? Hoặc nếu bổ nhiệm, giới thiệu người không làm được việc, làm hỏng việc thì phải chịu trách nhiệm chứ?

Chúng ta chưa làm tốt điều này. Đáng lý người giới thiệu phải là người chịu trách nhiệm! Nhưng đất nước mình là vậy. Xuyên suốt của cả vấn đề nhân tài là dân chủ và trách nhiệm. Dân chủ là phải dựa vào dân, dựa vào đông đảo quần chúng, dựa vào ý kiến của nhiều người, thì mới biết được ai tài, ai không tài. Nếu không làm tốt công tác nhân tài thì đất nước không theo kịp các nước xung quanh.

Xin cảm ơn ông về buổi trò chuyện cởi mở này.
 
Nhật Minh (thực hiện)

25 thg 10, 2011

Tái cơ cấu, một góc nhìn khác


Khi căn nguyên của lạm phát liên tục cao tại Việt Nam đang khá thống nhất ở nhiều nhận định, TS. Nguyễn Minh Phong (Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội) một mình quả quyết: một nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao là do... nạn chạy chức chạy quyền.

Bởi thế, mục tiêu tái cơ cấu công tác cán bộ, theo ông cần đặt lên vị trí ưu tiên trong điều kiện hiện nay.
Trao đổi với VnEconomy quanh chủ đề tái cơ cấu nền kinh tế, một vấn đề thời sự vừa được chuyển tải qua thông điệp mạnh mẽ mới đây từ hội nghị Trung ương Đảng, TS. Nguyễn Minh Phong đã lý giải sâu hơn về quan điểm của ông.
Theo ông, ai cũng biết là nạn chạy chức chạy quyền đã được ghi nhận trong các văn kiện chính thức rồi...
Từ góc nhìn của tôi, tại Việt Nam có 4 lĩnh vực chủ yếu còn tồn tại tham nhũng. Thứ nhất là đất hai, thứ hai là ngân sách, thứ ba là ở doanh nghiệp nhà nước và thứ tư là công tác cán bộ. Tham nhũng ở ba lĩnh vực đầu theo thời gian sẽ giảm dần, vì đất đai sau một thời gian sẽ có "chủ" thực sự, ngân sách được kiểm soát kỹ hơn và doanh nghiệp nhà nước cũng sẽ dần được "siết" lại.
Tuy nhiên, riêng lĩnh vực công tác cán bộ thì chưa được như vậy. Xảy ra tham nhũng ở ba “ông” kia có thể mất vài ngàn tỷ, riêng tham nhũng trong khâu cán bộ có thể mất cả vài thế hệ, nên tôi mới nói hệ quả lớn hơn rất nhiều. Tham nhũng trong công tác cán bộ là tham nhũng lớn nhất, tệ hại nhất và nguy hiểm nhất, nhưng hiện nay nhận thức về nó còn rất mơ hồ.
Còn tại sao nói lạm phát cao là do tham nhũng trong công tác cán bộ, rất dễ hiểu. Những cán bộ chạy chức chạy quyền nếu đã mất chi phí “đầu vào” lớn, thì khi đã yên vị sẽ nghĩ cách “hoàn vốn”.
Đã “hoàn vốn” thì sau đó sẽ nghĩ cách “kiếm lời”, vậy thì còn đâu thời gian phục vụ đất nước nữa? Rõ ràng đây là bất cập lớn.
Và theo ông thì việc cố gắng để “hoàn vốn” chính là một trong các nguyên nhân khiến lạm phát ở Việt Nam liên tục tăng cao?
Điều đó rất rõ.
Khi công tác cán bộ không đạt chuẩn từ tất cả các khâu tuyển lựa và bồi dưỡng cũng như kiểm soát thì rất dễ tạo ra lợi ích nhóm và lợi ích cá nhân. Họ sẽ đưa ra quyết định gây nhũng nhiễu, tạo ra lợi ích cho mình là chính và làm tổn hại đến cái chung. Mà tổn hại chung hiện nay lớn nhất chính là lạm phát.
Chẳng hạn, ông cán bộ chạy chức chạy quyền được giao lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước, càng đầu tư nhiều, càng đầu tư dàn trải, nhiều dự án thì ông càng có nhiều phàn trăm. Ông cán bộ tha hóa ở ngân hàng cũng có thể  tạo ra cản trở hành chính, cấp tín dụng nhiều hay ít không vì lợi ích chung mà vì quan hệ cánh hẩu, vì phần trăm...
Tất cả cái đó hội tụ lại, tạo ra sức ép về lạm phát. Lạm phát là thước đo chung, là nơi hội tụ của các chính sách, là kết quả hoạt động của cả xã hội, ý của tôi là như thế.
Lợi ích nhóm, một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả thấp, ngân sách thất thoát…, những điều đó ít nhiều cũng đã được đề cập, vậy theo ông thì tại sao lại chưa được nhìn nhận như là nguyên nhân chính của lạm phát?
Đối với tôi thì dễ hiểu thôi, vì các nhà kinh tế Việt Nam học ở nước ngoài thì không có khái niệm cán bộ gây ra lạm phát, mà cái này chỉ có ở Việt Nam mới đặc biệt như thế.
Tiếp nữa là ở Việt Nam tham nhũng còn lớn, gắn liền với ngân sách, các hoạt động chính sách, gắn liền với gây cản trở doanh nghiệp, mới tạo ra xung lực lạm phát.
Tôi nói nguyên nhân này vì khi tôi làm luận án tiến sỹ về lạm phát, rất hiểu các nguyên nhân và các kiến thức người ta nói về lạm phát. Tôi cũng rất chịu khó lắng nghe, quan sát và phát hiện. Quan sát của tôi cho thấy rằng đó là kết luận có cơ sở, và điều này thì tôi cũng chỉ mới nói ra ở phạm vi hẹp thôi.
Một trong những dấu  ấn khá đặc biệt trong điều hành kinh tế năm nay là các buổi tham vấn ý kiến chuyên gia khá dày đặc, rộng rãi. Đó cũng là cơ hội để cá nhân ông có thể “hiến kế” kiềm chế lạm phát, thưa ông?
Tôi phát biểu ở nội bộ Hội Khoa học kinh tế thì được mọi người nghe nhưng không được tham gia vào các hội nghị sâu hơn. Và có thể việc truyền đạt của đại diện hội có thể chưa rõ ý mình.
Với phân tích như ông thì các giải pháp sẽ được coi là chưa đủ nếu chưa thể khắc phục được bất cập từ công tác cán bộ?
Chắc chắn rồi. Chính sách rất quan trọng. Nhưng nếu cán bộ không thực hiện thì chính sách vô nghĩa.
Rất tiếc là nước mình không có đièu tra xã hội, nhưng quan sát và lắng nghe thì thấy thế, khi lòng dân bức xúc vì chất lượng cán bộ kém đi, lạm phát càng khó kiểm soát hơn, vì nó gắn liền với đầu tư kém hiệu quả, gắn liền với chi phí nhũng nhiễu, mà lý do trong nước là chính.
Vì thế, nên ông cho rằng tái cơ  cấu cán bộ phải được đặt lên hàng đầu?
Theo tôi, đấy là việc quan trọng số một. Bác Hồ nói rồi, cán bộ là quyết định nhất, nếu cán bộ không tốt thì hỏng tất cả.
Vậy trong khi chưa tái cơ cấu cán bộ thì mục tiêu kéo lạm phát về một con số trong năm 2012 liệu có thực hiện được không, theo ông?
Có những yếu tố trong công tác cán bộ không thể thay ngay, nhưng có thể đưa ra những quy chế, yêu cầu về vị trí.
Ví dụ hạn ngạch tín dụng vượt quá bao nhiêu phần trăm thì ông lãnh đạo ngân hàng phải chịu trách nhiệm thế nào. Hay nếu tập đoàn nhà nước hoạt động không có hiệu quả hay làm sai thì có thể cách chức lãnh đạo, chứ như hiện nay thì chả thấy ông nào chịu trách nhiệm gì cả...
Nếu có thể đưa ra các quy chuẩn buộc phải tuân theo, thì có thể giải quyết từng bước được vấn đề. Còn hiện nay ta chưa làm được thế, chưa rõ trách nhiệm cá nhân.
Nguyên Thảo

19 thg 10, 2011

Xã hội câm lặng


Hy Văn

Khi bàn đến lý tưởng sống, tôi đã từng nói trong bài bbc.co.uk. Nhưng sống theo lý tưởng vẫn là cái gì đó rất xa lạ với xã hội hôm nay. Thử tìm kiếm lý do, gặng mãi tôi mới tìm được một đáp án: đó chính là quan điểm các giá trị xã hội đang làm ù lỳ sức sống của một dân tộc vốn có lòng yêu nước mãnh liệt. Chỉ có hệ thống quan điểm giá trị mới làm nên một xã hội tốt đẹp hay tồi tệ.


Giá trị và chuẩn mực

Quan điểm giá trị là gì? Hiểu một cách sơ đẳng đó là những ước định về đạo đức, vật chất, tinh thần, quyền, nghĩa vụ,… được cấu thành làm mục đích sống, lao động và hưởng thụ. Quan điểm giá trị có tính chất chi phối, định hướng tất cả hoạt động hàng ngày của mỗi chúng ta.

Cấu trúc của xã hội được hình thành thông qua các quan điểm giá trị nhưng hệ thống hóa thông qua thể chế chính trị. Văn hóa Việt Nam hay bất cứ nước nào trên thế giới chẳng qua là sản phẩm của sự tích tụ của các quan điểm giá trị theo thời gian. Quan điểm giá trị làm nên các tác phẩm hội họa, thơ ca, kiến trúc, tín ngưỡng và tôn giáo,… Khởi nguồn của một nền văn minh chính là khi những giá trị có tính chất đột phá được cộng đồng nuôi dưỡng và thống nhất gìn giữ, lực lượng đứng đầu cộng đồng này có vai trò dẫn dắt và phát huy sức mạnh để giúp dân tộc đó đạt đến bến bờ vinh quang. Đế chế La Mã được gây dựng trên quan điểm các giá trị cộng hòa; đế chế Trung Hoa là sự phát huy sức mạnh của các giá trị thống nhất; đế chế Nhật lấy trọng tâm từ sức mạnh của các giá trị kỷ luật; đế chế Mỹ được gây dựng trên sức mạnh của các giá trị tự do,… Và trong sự không ngừng của dòng chảy lịch sử, đặc biệt là sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, các quan điểm mang tính chất bảo thủ và khép kín chỉ làm cho dân tộc đó tiến nhanh về bóng đêm nô lệ.
Hệ thống quan điểm giá trị mà dân chúng nước ta lấy làm phương châm sống không gì khác đó chính là: sự ổn định. Sự ổn định được giới lãnh đạo nêu ra như là kinh nghiệm nội chiến liên miên trong lịch sử, còn dân chúng lấy sự ổn định vì tâm lý ngại va chạm cọ xát, thiếu bản lĩnh để khẳng định mình. Vì sự ổn định mà tay có thể bịt mắt, miệng luôn ậm ờ, tai vì thế cũng chả buồn nghe ngóng xem điều hay lẽ phải. Đó là một xã hội câm lặng.
Điểm thiếu lớn nhất của xã hội ta lại là sống không có chuẩn mực. Chuẩn mực thực ra chính là nguyên tắc sống và hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức hay xã hội. Bấy lâu nay nhìn chung xã hội ta chỉ có luật pháp và quyền lực thực thi chứ chưa có một hệ thống chuẩn mực được quy định bởi chính bản thân mỗi cá nhân, được cá nhân chấp hành mà không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào cả. Việc thiếu chuẩn mực không những thể hiện mỗi chúng ta chưa trưởng thành về mặt tư duy và đạo đức mà còn tạo nên một vòng kim cô ngăn ngừa mọi sự đấu tranh chống áp bức.
Hai vấn đề giá trị ổn định và không chuẩn mực đi đêm, kết hợp với nhau làm cho đất nước ta nghèo hèn đi. Tôi lấy một ví dụ: một ông bạn quan bị vợ cắm sừng, một ngày xấu trời ông nhìn thấy vợ ngủ với sếp của mình, ông ta nổi khùng lên nhưng suy đi tính lại dấu nhẹm chuyện đi. Nguyên cớ là: ông ta sợ người ngoài cười chê hay nói trắng ra là sỹ diện ảo, ông ta sợ ảnh hưởng đến đường quan lộ như vậy là hèn nhát, ông ta nghĩ nếu làm bung ra sẽ không tốt cho con cái thì đó là lừa dối… Tất cả lý do không những cho ta thấy quan điểm ổn định đã làm thoái hóa dạo đức xã hội; vì thiếu chuẩn mực nên khi gặp chuyện khó khăn ông ta chọn giải pháp thoái lui. Đó chỉ là trường hợp nhỏ, chứ bây giờ giả sử có chiến tranh mà vẫn suy nghĩ đắn đo vậy thì liệu ông ta cầm súng chiến đấu có bắn được quân thù hay không? Vậy cho nên nếu có ai lo lắng quốc gia đang ngày một lâm vong cũng chẳng phải là thừa.
clip_image001
Quy luật tiến triển của xã hội được phôi thai từ tư tưởng độc lập cá nhân của Fukuzawa Yukichi


Chí khí độc lập

Tình trạng quan điểm giá trị xã hội chống lại xu thế thời đại hiện được dân chúng mặc nhiên thừa nhận không khác gì một bản “khế ước” chôn vùi mọi dự án triển vọng nay mai. Có nhiều nhà thơ, nhà văn hay kiến trúc sư cứ đổ lỗi mãi cho hệ thống chính trị, cách hưởng thụ của xã hội làm cho họ không có được tác phẩm kiệt xuất. Nói như vậy là bao biện, là tự khẳng định cái yếu kém của mình nhưng lại không dám thừa nhận điều đó. Sản phẩm văn hóa hay, nghệ thuật độc đáo chỉ đạt được khi tác giả đó có một quan điểm giá trị đặc biệt, vượt lên khỏi mọi sự ràng buộc mang tính ước lệ xung quanh và đặc biệt phải có chí khí độc lập. Có chí khí độc lập thì sức sống, sức sáng tạo của mỗi con người mới được phát huy. Và đó cũng là cách duy nhất để khẳng định mình, khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại mở.
Độc lập cá nhân ở một phạm trù lớn hơn so với tự do cá nhân, vì muốn có được tự do thì không chắc chắn tự bản thân anh làm ra, có khi được ban tặng, còn độc lập cá nhân nhất thiết anh phải tự tạo ra. Sống, làm việc theo quan điểm giá trị, chuẩn mực mới có thể đạt và duy trì được thành quả này. Bấy lâu nay nhiều bậc trí thức tỏ ra khá đắg cay và bất lực cho xã hội Việt Nam, một mặt sống trong chế độ cưc quyền, mặt khác lại luôn cảm thấy mình cô đơn và lạc lõng vì tiếng nói đấu tranh, cải cách giáo dục không được xã hội hưởng ứng. Họ đổ lỗi cho “nước Việt mình nó vậy”, đó là vì họ rong ruổi phần ngọn, trong khi phần gốc: gây dựng quan điểm giá trị bị xem thường. Muốn có dân chúng theo mình, chính quyền lắng nghe thì phải khai sáng cho họ. Có lẽ từ khai sáng khi dịch sang tiếng Việt mang hơi hướng trịch thượng, nên người ta ngại dùng, ngại làm. Nếu ai còn nhìn nhận như vậy tôi mong rằng họ thay đổi ngay. Khai sáng đó là sự chia sẻ các quan điểm giá trị cho những người xung quanh nhằm phá hủy những thành trì hủ hậu, giúp mỗi cá nhân đạt đến cái đích sống độc lập và có chí khí.
Trong chế độ chuyên quyền, giới cầm quyền sợ nhất chính là dân chúng sống có chí khí độc lập, họ thường áp đặt quan điểm: tự do dân chủ có thể gây ra bạo loạn, mâu thuẫn, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là sự lừa dối trắng trợn, vì khi cá nhân độc lập hay trưởng thành về nhận thức thì bản thân họ cân nhắc rất kỹ mọi vấn đề liên quan đến tương lai của họ. Thay vì chính quyền phải luôn lo lắng thay dân chúng, hãy để dân chúng tự lo lắng thay chính quyền về các quyết định của họ. Thay vì khống chế dân chúng trong một cái rọ, hãy để dân chúng tự xây dựng một ngôi nhà có các giá trị sống và chuẩn mực tốt đẹp. Một ngôi nhà vững bền như vậy thì có gì mà còn phải lo lắng về sự đoàn kết của một dân tộc biết vươn vai đứng dậy.


Văn minh chờ đón

Một quốc gia văn minh thì sự bắt đầu là cái học. Bấy lâu nay, học hành và tri thức luôn cản bước những suy tư, hành động và việc làm của chúng ta. Dù có hoài bão lớn đến đâu, tri thức mà không có thì chắc chắn chả làm được gì. Cái sự bất lực thường đưa chúng ta hướng ngoại, ỷ thế bên ngoài để gìn giữ nền độc lập, trạng thái độc lập mà nội lực luôn yếu kém sẽ nhanh chóng phụ thuộc. Mới đây chúng ta thấy ông Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh diện kiến lãnh đạo Bắc Kinh mà cảm thấy tủi hổ, ngài lãnh đạo của một đất nước chín mươi triệu dân đưa hai tay nồng ấm, đối lại chỉ là một bàn tay lạnh toát từ ông Hồ Cẩm Đào. Chẳng những vị thế của chúng ta thật là thấp hèn trong mắt của lãnh đạo Trung Quốc, mà dân tộc ta cũng dễ bị thế giới cười chê. Nhưng khách quan mà nhìn nhận, với sự lệ thuộc hệ tư tưởng mấy nghìn năm nay (do điều kiện khách quan và cả chủ quan), chúng ta khó có thể có được nhiều hơn thế từ một dân tộc vốn cho mình cái quyền trịch thượng, đàn anh. Chúng ta muốn yên thân để phát triển theo cách riêng của mình, nhưng họ vẫn không coi trọng, vậy chúng ta nên làm gì. Chỉ có cách xóa bỏ sự ổn định mang tính chất cưỡng ép và tự sướng bấy lâu nay mà thay đổi lại các quan điểm giá trị, tự ta tạo niềm hứng khởi và nguồn lực từ tri thức, nhiệt huyết cho ta. Chỉ có sự dấn thân, sự hy sinh gạt bỏ những giá trị không đáng, mở đường cho tự do, độc lập vững bền. Đó là văn minh, cái đích của quan điểm giá trị sống!


H.Đ

7 thg 10, 2011

Luật sư Ngô Ngọc Trai bàn về sửa hiến pháp


Luật sư Ngô Ngọc Trai - Từ những biến chuyển của cuộc sống đã đưa đến nhu cầu sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam. Chiều hướng sửa đổi là tăng cường dân chủ để phù hợp với phát triển nhận thức về hiến pháp. Nội dung sửa đổi cơ bản vẫn xoay quanh vị trí vai trò của nhà nước trong hiến pháp.

Bài viết này soát xét lại căn nguyên của sự hình thành nhà nước và hiến pháp, mối tương quan giữa nhà nước và hiến pháp. Có thể nào nhà nước không có hiến pháp có được không? Hoặc có hiến pháp mà không có “nhà nước” có được không? Đặc biệt từ đó minh định lại ý nghĩa của thuật ngữ “nhà nước” trong hiến pháp. 

Với nội dung đó người viết muốn bạn đọc cùng bình tâm xem lại những vấn đề lâu nay vẫn được coi là hiển nhiên chưa đụng chạm đến. Phân tích làm rõ ra đây với mong muốn giúp cho bạn đọc có được cái nhìn tường minh hơn về hiến pháp. Chúng ta hiểu rằng: Cần phải hiểu về dân chủ mới biết cách xây dựng xã hội dân chủ. Cần phải hiểu về hiến pháp mới biết cách xây dựng hiến pháp dân chủ. Dân chúng nào thì chính phủ ấy, khi chúng ta than phiền về chính phủ, chính là lúc chúng ta cần nhìn lại chính mình.

Quan điểm của Lê Nin về sự hình thành nhà nước

Bàn về nhà nước, hay bàn về vị trí của nhà nước trong hiến pháp Việt Nam, không thể nào không nhắc lại một số luận điểm triết học của Lê Nin về nhà nước. Trong bài giảng đọc “Bàn về nhà nước” tại trường đại học Xvéc-đlốp (ngày 11 tháng bảy 1919). Đăng lần đầu tiên trên báo "Sự thật", số 15, ngày 18 tháng Giêng 1929. Lê Nin nói:

- Học thuyết về nhà nước là dùng để bào chữa cho những đặc quyền xã hội, bào chữa cho sự bóc lột, bào chữa cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản; vì vậy, sẽ sai lầm lớn nếu hy vọng rằng người ta sẽ tỏ ra vô tư trong vấn đề này.

- Lịch sử chứng minh rằng nhà nước, một bộ máy cưỡng bức đặc biệt, chỉ xuất hiện ở nơi nào và khi nào mà xã hội đã chia thành giai cấp, tức là chia thành các nhóm người mà nhóm người này luôn luôn có thể chiếm đoạt lao động của những nhóm khác, người này bóc lột người khác.

- Trước khi xã hội chia thành giai cấp, thì cũng chưa có nhà nước. Nhưng cùng với sự xuất hiện và sự xác lập của tình trạng xã hội phân chia thành giai cấp, cùng với sự phát sinh của xã hội có giai cấp thì nhà nước cũng xuất hiện và được củng cố.

- Bao giờ cũng vậy, trong mỗi xã hội có nhà nước đều có một nhóm người cai trị, chỉ huy, thống trị, và để giữ chính quyền, họ sử dụng một bộ máy cưỡng bức, một bộ máy bạo lực,

- Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với giai cấp khác.

- Nhà nước là một bộ máy để cho giai cấp này áp bức giai cấp khác, một bộ máy dùng để duy trì dưới sự thống trị của một giai cấp đối với tất cả các giai cấp bị lệ thuộc khác.

Luận điểm của Lê Nin rất rõ ràng, những nội dung trên đã trở thành nền tảng kim chỉ nam cho việc xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Cách đặt vấn đề và diễn giải của Lê Nin về nhà nước cho chúng ta thấy:

Thứ nhất: Khởi nguyên cho sự hình thành nhà nước là vấn đề tài sản. Tài sản rồi sự bất bình đẳng về tài sản là căn nguyên hình thành lên các giai cấp. Nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về tài sản là lòng tham con người, tài sản có xu hướng tích tụ do con người có lòng tham. 

Thứ hai: Bản chất, vai trò của nhà nước, đó là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị đối với phần còn lại của xã hội. Nhà nước có vai trò là “công cụ”, có mục đích là duy trì sự thống trị của giai cấp thống trị đối với phần còn lại của xã hội.

Thứ ba: Đã là “công cụ” thì sẽ được sử dụng trong một khoảng thời gian hữu hạn, có điểm bắt đầu và sẽ đến lúc kết thúc. Lê Nin cho rằng có thời kỳ chưa có nhà nước, nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội hình thành nên các giai cấp. Lê Nin cũng cho rằng nhà nước rồi sẽ tiêu vong khi mà của cải dư thừa con người không còn tranh chấp với nhau về tài sản nữa, đó là thời kỳ của chủ nghĩa cộng sản.

Từ những luận điểm trên tất yếu đi đến kết luận mối quan hệ giữa nhà nước và dân chủ, nhà nước và hiến pháp, như sau:

- Nếu nhà nước là công cụ bạo lực của giai cấp này thống trị các giai cấp khác thì nhà nước đó không thể nào mang trong mình các giá trị dân chủ. Một nhà nước không thể vừa mang trong mình giá trị dân chủ, vừa mang bản chất là một công cụ bạo lực. 

- Nếu trong xã hội tồn tại giai cấp này thống trị giai cấp khác thì không thể nào có bình đẳng, dân chủ. Cốt lõi của dân chủ là bình đẳng, không có bình đẳng tất không thể có dân chủ. 

- Nếu hiến pháp mang ý nghĩa là khế ước của tất cả công dân về việc thiết lập bộ máy chính quyền để bảo vệ các quyền tự do dân chủ cho các công dân thì không có chỗ cho hiến pháp trong nhà nước của Lê Nin. Người viết chưa từng nghe thấy quan điểm của Lê Nin về hiến pháp. Hiến pháp - khế ước của toàn thể nhân dân về việc thiết lập chính quyền - không thể nào tồn tại trong một xã hội mà giai cấp này áp bức các giai cấp khác bằng công cụ nhà nước.

Một cách đặt vấn đề khác về sự hình thành nhà nước 

Để xây dựng hiến pháp dân chủ, chính quyền dân chủ, chúng ta cần một cách đặt vấn đề khác, một ánh nhìn khác về căn nguyên đưa đến sự hình thành, thiết lập bộ máy chính quyền.

Con người do nhu cầu tìm kiếm thức ăn, chống chọi lại thú dữ, thiên tai đã từ bỏ cuộc sống tự nhiên nguyên thủy, đơn độc, hoang dại, tụ tập lại cùng sống với nhau hình thành lên xã hội loài người. Từ đó đã làm xuất hiện nhu cầu tổ chức, xắp xếp, duy trì trật tự giữa các thành viên. Chính quyền khi đó xuất hiện với nhiệm vụ đơn giản là điều tiết các mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội.


Khi con người tự nhiên chuyển hóa thành con người xã hội đã đưa đến những chuyển hóa hoàn toàn năng lực nhận thức và năng lực hoạt động của con người. Con người tự nhiên hoạt động dựa trên bản năng, con người xã hội hoạt động dựa trên các giá trị. Theo thời gian, con người đúc kết lên các thang giá trị mà toàn bộ đời sống hoạt động của con người dựa trên và hướng đến các giá trị đó. Các chuẩn mực giá trị như: bình đẳng, công bằng, tự do, dân chủ, khoan dung, hạnh phúc… đã trở thành hệ giá trị phổ quát của nhân loại, sau này được cụ thể hóa bằng các quy định về nhân quyền.

Quá trình nhận thức và hoạt động của con người dựa trên và hướng tới các chuẩn mực giá trị được loài người thừa nhận, khi đó chính quyền chuyển từ vai trò điều tiết các hoạt động của con người sang vai trò là công cụ, phương tiện bảo vệ cho các chuẩn mực giá trị - các quyền con người. Sự chuyển hóa vai trò này diễn ra âm thầm và trong thời gian dài.

Tới thời điểm này, không còn nghi ngờ gì nữa, vai trò của chính quyền đã được xác lập không thể chối cãi. Chính quyền không là công cụ bạo lực của giai cấp này áp bức giai cấp khác. Chính quyền cần phải là phương tiện để bảo vệ nhân quyền. Mục đích tối hậu của chính quyền là bảo vệ nhân quyền. Một quốc gia mới được thành lập như Palestin hay Nam Sudan thì chính quyền được hình thành phải có mục đích là để bảo vệ nhân quyền, có vậy mới có được tính chính danh được nhân dân trong nước thừa nhận, được quốc tế thừa nhận. 

Với cách đặt vấn đề như vậy ta thấy:

- Căn nguyên cho sự hình thành chính quyền đó là nhu cầu về một thực thể trung gian để đảm trách giải quyết những vấn đề mà mỗi cá nhân không thể đảm nhiệm được. Chính quyền hình thành không phải xuất phát từ nhu cầu của một nhóm nhỏ có tài sản để áp bức bóc lột phần còn lại. Đó là nhu cầu của toàn bộ các thành viên trong xã hội. 

- Sự tích tụ tài sản không phải là nguyên nhân đưa đến sự thành lập chính quyền, đó là cái nhìn sai lệch. Ngược lại sự tích tụ tài sản là hệ quả của việc thành lập chính quyền, khi mà một số nhỏ nắm trong tay quyền lực đã sử dụng nó để làm giàu.

- Tài sản có xu hướng tích tụ do con người có lòng tham, điều này là phản ánh đúng thực tế nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ. Nguyên nhân cơ bản khác đưa đến sư tích tụ tài sản hay sự bất bình đẳng về tài sản là do có sự bất bình đẳng về năng lực phẩm chất con người. Người khỏe hơn, nhanh hơn thì săn được nhiều thú hơn là lẽ đương nhiên.

- Vai trò chức năng của chính quyền không phải là bất biến. Vai trò chức năng của chính quyền dần thay đổi và chuyển biến hoàn toàn bản chất theo quá trình phát triển nhận thức của con người về các thang giá trị. Ban đầu chính quyền có vai trò duy trì trật tự, điều tiết quan hệ giữa người với người (việc điều tiết ban đầu có thể chưa đảm bảo các giá trị bình đẳng, công bằng…). Khi con người văn minh và đã xây dựng lên các thang giá trị được thừa nhận thì chính quyền khi đó là công cụ phương tiện của con người để bảo vệ chính các quyền con người.

- Không thể nào tồn tại xã hội mà không có chính quyền, điều này xuất phát từ chính bản chất khiếm khuyết của loài người. Con người có trí thông minh nhưng không phải là không thể mắc sai lầm (con người không phải thánh thần), con người lại có bản năng dục vọng thúc giục lôi kéo, không thể nào từ bỏ được. Bởi lẽ đó một người có thể dốt nát, nhầm lẫn (vô ý) hoặc bị dục vọng lôi kéo (cố ý) xâm phạm tới quyền của người khác. Do vậy khi sự vi phạm vẫn có thể xảy ra thì vẫn luôn cần một thực thể trung gian để điều tiết, bảo vệ các quyền con người. Không thể nào trông đợi vào sự tự giác tận cùng của con người.

Hiến pháp xuất hiện từ khi nào?

Như trên đã phân tích, không có hiến pháp trong nhà nước của Lê Nin, khi nhà nước là công cụ do một giai cấp thiết lập để áp bức các giai cấp khác.

Hiến pháp chỉ xuất hiện khi đông đảo con người đã thừa nhận tôn trọng một số chuẩn mực giá trị nhất định (các chuẩn mực giá trị cũng dần hoàn thiện theo thời gian). Khi con người cùng thừa nhận phải tôn trọng các chuẩn mực đó thì mới nảy sinh nhu cầu tìm kiếm cách thức thực hiện. Hiến pháp là sự ghi nhận các chuẩn mực giá trị và cách thức để bảo vệ các chuẩn mực giá trị đó. Chính quyền được thiết lập theo nội dung thứ hai.

Theo những luận giải về sự hình thành hiến pháp ở trên thì hiến pháp có trước chính quyền. Nhưng thực tế có nhiều bằng chứng cho thấy chính quyền có trước hiến pháp. Vậy phải chăng là có mâu thuẫn?

Khi nhiều người tập trung lại sống cùng với nhau thì chính quyền xuất hiện, xét theo diễn biến phát triển của lịch sử thì rõ ràng chính quyền có trước. Vào thời kỳ văn minh Hy lạp khoảng năm 300, 400 trước công nguyên mới xuất hiện bản hiến pháp. Ngay ở Việt Nam vào thời điểm năm 1945, 1946 thì chính phủ được thành lập rồi, sau mới có Hiến pháp. Như vậy thực tế có nhiều bằng chứng cho thấy chính quyền có trước hiến pháp.

Nếu coi: Hiến pháp là khế ước của tất cả mọi người sống trên một lãnh thổ quốc gia cùng cam kết thừa nhận tôn trọng các chuẩn mực giá trị, cùng thống nhất lập nên một thực thể trung gian là chính quyền để bảo các chuẩn mực giá trị đó, khế ước đó được gọi là hiến pháp.

Như vậy chính quyền là kết quả của việc thực thi hiến pháp, chính quyền là kết quả của việc các công dân thực hiện các cam kết của chính mình. Hiến pháp có trước chính quyền.

Thời điểm những năm 1945, 1946 ở Việt Nam chính quyền ra đời trước khi có hiến pháp nhưng thực ra khi đó trong xã hội đã tồn tại các chuẩn mực giá trị phổ quát của nhân loại - Hiến pháp bất thành văn. Bản thân sự thành lập chính phủ và việc soạn thảo ban hành hiến pháp năm 1946 thực hiện theo các mô thức quốc tế, chính là sự thừa nhận các giá trị phổ quát của nhân loại. 

Bản hiến pháp năm 1946 nhằm hợp thức hóa tính chính danh của chính quyền trên phương diện quốc tế. Theo đó chính phủ muốn nói với quốc tế rằng, tuy chính phủ tôi ra đời trước nhưng đã được quốc dân chấp thuận công nhận bằng bản Hiến pháp này đây.

Chính quyền ra đời nhằm mục đích giúp cho đời sống con người được tốt hơn.

Chính quyền chỉ là một trong rất nhiều tổ chức mà con người thành lập lên với mục đích giúp cho đời sống con người được tốt hơn. Ngoài việc thành lập chính quyền, con người còn thành lập lên các tổ chức xã hội.

Tóm lại: Bộ máy chính quyền với ý nghĩa là thực thể trung gian được hình thành để đảm nhiệm những việc mà từng cá nhân không thể đảm đương được, đó xuất phát từ nhu cầu của toàn thể dân chúng và được xây dựng dựa trên các chuẩn mực giá trị. Ban đầu chức năng của nó là điều tiết mối quan hệ giữa người với người, sau này chức năng của nó là công cụ phương tiện bảo vệ nhân quyền. Có như thế mới đặt ra vấn đề có hiến pháp và xây dựng hiến pháp sao cho dân chủ để có được đời sống xã hội dân chủ. Còn nếu chiếu theo luận điểm của Lê Nin về nhà nước thì không cần có hiến pháp, hiến pháp không có ý nghĩa gì cả.

Minh định lại thuật ngữ “nhà nước” trong hiến pháp

Trên thực tế, đã xảy ra những việc đánh tráo khái niệm, đánh tráo ngôn từ, hay làm ảo thuật với từ ngữ. Có một số từ mới xuất hiện hoặc có một số từ hoàn toàn biến mất nhằm phục vụ cho những mục đích chính trị. Một số từ được gán ghép cho ý nghĩa hoàn toàn mới. Hoặc một số từ gần giống nhau về nghĩa được sử dụng lập lờ để cố tình làm cho người khác nhầm lẫn, hiểu sai vấn đề, lẩn tránh trách nhiệm. Đó chẳng là gì khác là những thủ đoạn chính trị, giúp cho người làm chính trị đạt được mục đích của mình. 

Không biết nguyên thủy, thuật ngữ “nhà nước” mang ý nghĩa gì? Nhưng tới nay, thuật ngữ “nhà nước” có thể coi là ngôn từ chính trị quan trọng bậc nhất ở Việt Nam. Việc sử dụng thuật ngữ “nhà nước” quá phổ biến đã làm cho mọi người quên đi gốc gác của nó. Việc khám phá và sử dụng thuật ngữ “nhà nước” đã tạo lên sự phù hợp, logic, đúng đắn, chính đáng cho việc xác lập một thể thức nắm giữ, sử dụng quyền lực trên đất nước Việt nam. Chính nó đã tạo lên thế và lực cho thể chế chính trị được áp đặt lên quốc gia Việt Nam. Thuật ngữ nhà nước luôn đi kèm với nó là quyền lực. 

Hãy cùng xem xét một số thông tin về vấn đề này.

- Hiến pháp năm 1992 có 147 điều trong đó có tới 160 từ “nhà nước”. 
- Hiến pháp năm 1980 có 147 điều thì có tới 209 từ “nhà nước”
- Hiến pháp năm 1959 có 112 điều thì có tới 70 từ “nhà nước”

Trong khi đó, Hiến pháp năm 1946 một số người cho là mang giá trị dân chủ có 70 điều chỉ có duy nhất 1 từ “nhà nước”. Được quy định tại Điều thứ 15 với nội dung: “Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước.”

Mở rộng thêm ta thấy:

- Hai bản Hiến pháp của Việt Nam Cộng Hòa không có từ “nhà nước” nào.
- Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh viết có 1009 từ nhưng không có từ “nhà nước”.
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do chủ tịch Hồ Chí Minh viết có 210 từ nhưng không có từ “nhà nước”.

Xem ra có thời kỳ thuật ngữ “nhà nước” đã không được xem trọng sử dụng.

Tới đây chúng ta phân biệt: nhà nước với nước, đất nước, quốc gia, tổ quốc.

Nước, đất nước, quốc gia, tổ quốc chỉ thực thể tự nó hiện hữu, nội hàm trong đó bao gồm lãnh thổ địa lý quốc gia và xã hội loài người xây dựng trên đó. Các từ này mang ý nghĩa giống nhau, chỉ khác nhau về bối cảnh sử dụng, có thể được dùng thay thế cho nhau. Từ tổ quốc, đất nước mang sắc thái tình cảm, không sử dụng trong khoa học pháp lý, chỉ dùng trong thơ ca, văn chương khi người ta muốn khơi dậy tình cảm của con người.

Thuật ngữ “nhà nước” chỉ thực thể nhân tạo, là một trong rất nhiều tổ chức được con người lập ra nhằm phục vụ cho đời sống của con người. Nhà nước là một bộ máy, công cụ của con người, bị xóa bỏ khi cần.

Theo Lê Nin thì nhà nước là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, ngoài ra “nhà nước” là một bộ máy trong đó có Quốc Hội, Chính phủ, Tòa án, Quân đội, Công an, mặt trận tổ quốc…. Các nhà lập pháp xã hội chủ nghĩa đã gom vào trong nhà nước rất nhiều tổ chức khác nhau mặc dù các tổ chức đó được thành lập độc lập, có tên gọi riêng, chức năng riêng. Nhưng gom vào để làm gì, nếu bình thường tự các cơ quan, tổ chức kia đã là những chủ thể độc lập, có chức năng quyền hạn riêng biệt?

Thực chất từ “nhà nước” rỗng tuếch không có gì cả, cái mà chúng ta gọi lâu nay như bộ máy nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước thực chất là chỉ một cơ quan của một tổ chức cụ thể có tên gọi riêng. Ví dụ cơ quan quốc hội, cơ quan chính phủ, cơ quan tòa án, cơ quan công an…

Lâu nay chúng ta gọi chung là cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước là một thói quen không tốt, hình thành từ sự không phân định được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan riêng biệt. Điều này có gốc rễ từ việc thiếu vắng kiến thức về tổ chức bộ máy chính quyền của cả cán bộ lẫn người dân. 

Việc gọi tên chung chung là cơ quan nhà nước giống như ta vẫn gọi một người ngoại quốc là ông Tây. Nếu ta có kiến thức để phân biệt thì sẽ gọi là ông người Pháp, người Mỹ, người Đức, nhưng vì không thể phân biệt nên ta gọi chung là ông Tây. 

Chúng ta có Luật tổ chức quốc hội, Chủ tịch quốc hội; Luật tổ chức chính phủ, Thủ tướng chính phủ; Luật tổ chức tòa án, Chánh án tòa án nhân dân… Nhưng chúng ta không có Luật tổ chức nhà nước, không có chủ tịch nhà nước (ta có chủ tịch nước - có thể gọi tên khác là tổng thống hoặc quốc trưởng - chứ không có chủ tịch nhà nước).

Chúng ta hoàn toàn có thể phân định rạch ròi từng cơ quan riêng biệt để gọi đúng tên của nó và cần bỏ đi cách gọi chung chung là cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Chúng ta cần gọi đúng tên để xác định đúng thẩm quyền, trách nhiệm.

Một số trường hợp có thể bỏ đi từ “nhà nước”, Ví dụ:

- Kho bạc Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ tài chính dưới sự chỉ đạo của chính phủ vậy có thể gọi là kho bạc chính phủ, kho bạc quốc gia hay kho bạc quốc gia Việt Nam giống như 

Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam.

- Ngân hàng nhà nước là cơ quan trực thuộc Chính phủ, vậy có thể gọi là ngân hàng chính phủ hoặc ngân hàng quốc gia, hay ngân hàng quốc gia việt nam

- Thanh tra nhà nước, tên chính xác là Thanh tra chính phủ, Tổng thanh tra chính phủ do Thủ tướng bổ nhiệm

Tự các cơ quan riêng biệt đã có khả năng đứng độc lập và thực hiện được công việc của nó, vậy gom vào làm gì? Xin thưa rằng, gom vào để tập trung quyền lực, Nhà nước tập trung vào trong nó quyền lực. Quốc hội có quyền lập pháp, quốc hội là cơ quan Nhà nước, do vậy Nhà nước nắm quyền lập pháp. Chính phủ có quyền hành pháp, chính phủ là cơ quan Nhà nước, do vậy Nhà nước nắm quyền hành pháp. Tòa án có quyền tư pháp, tòa án là cơ quan Nhà nước, do vậy Nhà nước nắm quyền tư pháp. Nhà nước theo đó tập trung vào trong nó tất cả các quyền mà các cơ quan nằm trong nó có sẵn.

Nhà nước gom vào trong mình mọi thứ quyền lực, và đã nói đến “bên trong” thì có “bên ngoài” và “bên trên”. Bên ngoài là xã hội, bên trên là Đảng cộng sản. Biết bao nhiêu điều của Hiến pháp quy định quyền hạn của Quốc Hội, Chính phủ, Tòa án…, chỉ nhằm một mục đích phục vụ cho luận điểm: Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Tới đây ta thấy một sự logic hợp lý của việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ nhà nước. Một sự thật trần trụi về nhà nước là: Nằm trên nhà nước là Đảng cộng sản, “nhà nước” đã thỏa mãn khi thể hiện được vai trò công dụng của mình.

Như vậy là từ “nhà nước” thực ra rỗng tuếch, được sử dụng để chỉ một bộ máy bao hàm trong đó các cơ quan riêng biệt, đặt tất cả dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nếu bỏ đi từ “nhà nước” mà vẫn muốn giữ nguyên lý đảng lãnh đạo toàn bộ thì sẽ phải quy định: Đảng lãnh đạo quốc hội, đảng lãnh đạo chính phủ, đảng lãnh đạo tòa án, đảng lãnh đạo công an, đảng lãnh đạo quân đội, đảng lãnh đạo mặt trận tổ quốc, đảng lãnh đạo hội phụ nữ … Quy định như vậy thì không liệt kê hết được và có vẻ thô bạo đi ngược lại với các mô thức chính quyền mang các giá trị dân chủ phổ quát đã được quốc tế thừa nhận. 

Tóm lại

Bài viết này là bàn về việc sửa đổi Hiến pháp sao cho dân chủ để từ đó hòng mong muốn có được xã hội dân chủ. Nhưng chẳng thể nào tạo ra được một hiến pháp dân chủ khi lảng tránh cội nguồn gốc rễ của hiến pháp. Muốn xây dựng hiến pháp dân chủ chúng ta phải xem lại khởi nguyên của sự hình thành nhà nước và căn nguyên đưa đến sự ra đời hiến pháp.

Chúng ta hiểu rằng: Một hiến pháp mang các giá trị dân chủ chưa chắc đã đem lại một đời sống dân chủ trên thực tế. Tuy nhiên, một đời sống thực tế muốn dân chủ thì tối thiểu bản hiến pháp của nó phải mang giá trị dân chủ. Không thể nào có một đời sống dân chủ mà hiến pháp của nó lại mang các giá trị phi dân chủ.

Trong việc xây dựng hiến pháp, chúng ta cần xác định đâu là vấn đề quan trọng. Vấn đề nhà nước, cách thức tổ chức thiết lập bộ máy nhà nước, hay là vấn đề ghi nhận các quyền con người, quyền công dân và cách thức bảo vệ các quyền đó là quan trọng? Bởi lẽ khi ta quan trọng hóa vấn đề không thực sự quan trọng thì ta cũng sẽ nhầm lẫn không coi trọng vấn đề vốn thực sự là quan trọng.

Qua bài viết này ta thấy rằng không một cơ quan nào có từ nhà nước mà ta không thể phân định rạch ròi để gọi tên chính xác của cơ quan đó và bỏ đi từ nhà nước. Rất nhiều cơ quan tổ chức ở Việt Nam có thể bỏ đi từ đệm thừa thãi nhà nước. Gọi một cách bao trùm chung chung là một thói quen xấu và chỉ đem đến hệ quả xấu. Đó là sự thiếu kiến thức phân định để có thể gọi tên chính xác cơ quan đó để xác định trách nhiệm. Trong các cơ quan chính quyền, có cơ quan mang chức năng giám sát hoạt động của cơ quan khác, nếu gọi chung như thế thì cơ quan thực hiện và cơ quan bị giám sát và cả cơ quan xử lý sai phạm cùng gom vào làm một dễ dẫn đến sự tiêu cực, làm xóa nhòa đi gianh giới chức năng, nhiệm vụ, bổn phận.