26 thg 4, 2011

Xã hội cần những trí thức suy nghĩ độc lập

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Phó Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, là một trong những chuyên gia trẻ được nhiều người biết. Anh là thành viên nhóm nghiên cứu của Trường Kennedy thuộc Đại học Harvard (Hoa Kỳ), tham gia thực hiện bốn bài thảo luận chính sách theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, là “cánh chim báo bão” nhẫn nại với nhiều bài báo đề cập những giải pháp tháo gỡ khó khăn từ một số chính sách của Nhà nước.
Người đàn ông 36 tuổi này là thế hệ thứ ba trong một gia đình có truyền thống làm nghề dạy học. Gặp anh không dễ. Một phần vì công việc của anh khá bận rộn, phần khác vì anh ngại nói về mình. Ở anh có sự khiêm cung của một nhà giáo, thái độ điềm tĩnh của một nhà nghiên cứu và tâm thế dấn thân của một trí thức có lòng với đất nước.
* Được thành lập từ năm 1994, chuyên giảng dạy và nghiên cứu về chính sách công, nhưng dường như những góp ý từ Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright về các vấn đề chính sách mới chỉ xuất hiện trong thời gian năm, sáu năm trở lại đây?
- Trong thời gian gần mười năm đầu kể từ khi mở trường, chúng tôi tập trung vào những vấn đề chuẩn tắc của kinh tế học cơ bản, nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi khung tư duy từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, tạo ra một “ngôn ngữ chung” để chuẩn bị cho những thảo luận sau này, đồng thời giúp cho hệ thống làm chính sách tiếp cận với nhiều tài liệu khác, chẳng hạn như của Ngân hàng Thế giới, IMF hay UNDP…
Trong giai đoạn đầu của chuyển đổi, khác với trường chúng tôi, vị thế quốc tế và đa phương của các tổ chức này giúp những phân tích chính sách của họ đến được với Chính phủ. Thêm nữa, trường chúng tôi cũng cần thời gian để tạo dựng niềm tin đối với các cơ quan của Nhà nước và với xã hội.
Từ những năm 2000, chúng tôi tiến hành nhiều phân tích chính sách hơn, và đến năm 2007, chúng tôi xuất bản quyển Lựa chọn thành công và sau đó là một số bài phân tích chính sách theo yêu cầu của Chính phủ, thảo luận những vấn đề chính sách quan trọng của Việt Nam để giúp nền kinh tế vượt qua bất ổn vĩ mô, trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
* Việt Nam chủ trương mở cửa từ năm 1986 nhưng đến đầu thập niên 1990 mới có những chuyển biến tương đối rõ nét. Theo anh, cánh cửa đã thực sự mở đối với mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là với đội ngũ trí thức?
- Nhìn lại lịch sử đất nước, đội ngũ trí thức ở Việt Nam nếu có tồn tại thì thường gắn bó chặt chẽ với chính quyền. Những người có tiếng nói cách tân độc lập như Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ… bao giờ cũng rất hiếm hoi. Trong hai thập niên trở lại đây, những người trí thức có điều kiện trở nên độc lập hơn nhờ xu thế phát triển chung của đất nước.
Trong thời gian qua, chúng ta thấy một số trí thức đã từng cống hiến nhiều năm ở các cơ quan nhà nước chuyển sang làm việc ở khu vực dân doanh, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài hoặc thậm chí ra nước ngoài làm việc.
Việc bốn nhà văn Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm được trao tặng Giải thưởng Nhà nước trong năm 2007 là sự thừa nhận về những sai lầm của một thời và là một lời khẳng định rằng những giá trị đích thực sẽ luôn sống cùng thời gian. Đã biết thế thì đi một phần tư, một nửa hay đi trọn vẹn con đường tùy thuộc vào lựa chọn dấn thân của mỗi trí thức.
* Phải chăng người trí thức trong xã hội chúng ta vẫn còn mang trên vai một gánh nặng quá khứ ngột ngạt?
- Đó là phản ứng có tính tự nhiên. Tuy vậy, tôi nghĩ thái độ thận trọng có thể chia thành hai nhóm: tiêu cực và tích cực. Những người thận trọng một cách tiêu cực là tròn vo như quả bóng, không có kẽ hở để tấn công, có ngã cũng không tổn thương. Còn thận trọng tích cực là cố gắng hiểu để đẩy cái giới hạn lên cao và ra xa hơn.
Trong ngành hàng không có một thuật ngữ rất hay là “push the envelope.” “Envelope” ở đây không phải là “phong bì” theo nghĩa bình thường, mà trong kỹ thuật hàng không, nó miêu tả “phạm vi an toàn” (hay giới hạn trên và giới hạn dưới) của những nhân tố như tốc độ bay, công suất động cơ, độ cao, tốc độ gió… Như vậy, “push the envelope” có nghĩa là kiểm nghiệm những giới hạn đó để xem phạm vi bay an toàn có thể xa đến đâu.
Đương nhiên, trên thực tế, xác định được cái lằn ranh nhiều khi mong manh đó rất khó, quá một chút thì vượt giới hạn, có thể gặp nguy hiểm, bước lui một chút thì lại thành ra thận trọng tiêu cực.
* Mới đây, Chính phủ đã ban hành Quyết định 97, một vài điều khoản giới hạn phạm vi phản biện đối với các tổ chức khoa học công nghệ. Theo anh, phản biện như thế nào để có chừng mực?
- Đúng là chúng tôi có đôi chút kinh nghiệm về vấn đề này. Nguyên tắc thứ nhất, vấn đề mình phản biện phải quan trọng và là mối bận tâm của những nhà hoạch định chính sách. Việc Chính phủ đề nghị chương trình Fulbright thực hiện loạt bài về thảo luận chính sách là cơ hội rất tốt để chúng tôi phân tích những vấn đề chính sách một cách chính danh.
Nguyên tắc thứ hai là cần giữ thái độ khách quan, phê phán trên tinh thần xây dựng. Nếu không thì cũng giống như chê một ông bác sĩ bốc nhầm thuốc nhưng không đưa ra được toa mới hiệu nghiệm hơn. Nguyên tắc thứ ba là công khai minh bạch. Cụ thể là trình bày quan điểm nhất quán của mình ở mọi diễn đàn, dù đó là hội thảo của các cơ quan nhà nước tổ chức hay khi tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp.
Đảm bảo được các nguyên tắc này sẽ giúp đối tượng bị phản biện và toàn xã hội nói chung thấy được thái độ nghiêm túc và xây dựng của người phản biện. Thế nên, dù ý kiến có tính phê bình nhưng Chính phủ vẫn tiếp nhận, vẫn đề nghị chúng tôi tiếp tục đóng góp.
Tôi cho rằng sẽ luôn có chỗ cho những phản biện trên tinh thần hợp tác. Một điều cần nói thêm là những phân tích chúng tôi đưa ra đều dựa trên nền tảng số liệu chính xác và lý thuyết mạch lạc, từ đó Chính phủ có thể phản biện lại. Điều này tạo điều kiện cho sự đối thoại giữa hai phía. Phản biện mà không có đối thoại là thất bại.
* Tiếp tục với “nguyên tắc thứ nhất” anh vừa đề cập, đâu là những vấn đề các nhà hoạch định chính sách đang quan tâm?
- Có những vấn đề có tính ngắn hạn và dài hạn. Về ngắn hạn, trong bối cảnh tiêu dùng đi xuống, đầu tư giảm, tăng trưởng chậm lại thì thách thức cấp bách là làm thế nào để phục hồi nền kinh tế và chớp được cơ hội sau khủng hoảng. Bên cạnh đó, ngân hàng bắt đầu chạy đua lãi suất, thị trường ngoại hối đóng băng - người xuất khẩu không muốn bán USD, người nhập khẩu không mua được USD, rồi nguy cơ lạm phát, bong bóng chứng khoán và bất động sản có thể quay trở lại khi tín dụng vẫn tiếp tục được nới lỏng...
Về dài hạn, mặc dù tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam là rất lớn nhưng chưa đạt được do những bất cập có tính cơ cấu. Cụ thể là theo báo cáo giám sát mới đây của Thường vụ Quốc hội, trong khi khu vực nhà nước chiếm tới 47% về vốn đầu tư nhưng chỉ tạo ra được 31% doanh thu và 24% lao động thì khu vực dân doanh tuy chỉ chiếm 35% về vốn đầu tư nhưng lại tạo ra được 47% doanh thu và 53% lao động.
Nói cách khác, chính sách đầu tư của chúng ta đang kém hiệu quả, do vậy để đạt mức tăng trưởng khoảng 7,5% trong giai đoạn 2000-2007, mỗi năm Việt Nam phải đầu tư tới gần 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trong khi đó, ở giai đoạn phát triển tương tự như chúng ta hiện nay, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan chỉ cần đầu tư khoảng 30% GDP để đạt mức tăng trưởng 9% đến 10%.
Nói nôm na, chi phí tăng trưởng của Việt Nam cao gấp rưỡi, thậm chí gần gấp đôi so với các nền kinh tế này. Một cách khác để nhìn vấn đề là nếu đầu tư của Việt Nam hiệu quả như các con rồng Đông Á thì với tỷ lệ đầu tư hiện nay, chúng ta có thể tăng trưởng trung bình 10-12% hàng năm.
Một thách thức có tính dài hạn nữa là làm sao để Việt Nam thoát được bẫy của những nước thu nhập trung bình. Thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam hiện nay khoảng 1.000 USD, nằm trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Thực tế cho thấy chỉ có rất ít quốc gia vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình để tiến lên nhóm có thu nhập cao. Nếu chúng ta không có chiến lược và chính sách đúng đắn thì có thể lại rơi vào tình trạng “giậm chân tại chỗ” của một số nước ASEAN như Indonesia hay Philippines.
* Lý do là gì, thưa anh?
- Có nhiều lý do. Về phương diện kinh tế, thứ nhất vẫn là đầu tư kém hiệu quả. Thứ hai, sự tồn tại của các nhóm đặc quyền, đặc lợi cản trở cải cách, nền kinh tế thì kém hiệu quả nhưng họ lại được lợi. Thứ ba, hệ thống giáo dục lạc hậu, không theo kịp yêu cầu của sự phát triển và hội nhập. Vấn đề thứ tư là các nút cổ chai của nền kinh tế, gồm hạ tầng, hệ thống hành chính, thể chế, luật pháp… và năng lực điều hành của Nhà nước đều bất cập.
Trong thời gian vừa qua, nhiều người có năng lực đã rời khỏi hệ thống nhà nước. Việc này dẫn đến thực trạng là năng lực của bộ máy quản lý đất nước đi xuống trong khi mặt bằng xã hội đang dần được nâng lên, tạo ra mâu thuẫn trong hệ thống quản trị nhà nước của Việt Nam. Chỉ khi giải quyết được vấn đề này thì hệ thống quản lý nhà nước mới đóng được vai trò trợ giúp và xúc tác cho quá trình phát triển.
* “Kém hiệu quả” có phải là lý do khiến anh phê phán mô hình tập đoàn trên nhiều diễn đàn?
- Các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam tuy nói là học theo mô hình chaebol của Hàn Quốc, nhưng là một sự học tập không đầy đủ. Cần lưu ý là hai mô hình này có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Thứ nhất, tập đoàn ở Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước, trong khi các chaebol của Hàn Quốc về cơ bản thuộc sở hữu tư nhân. Hình thức sở hữu khác nhau thì ứng xử cũng sẽ rất khác do một bên tiêu tiền của Nhà nước, còn bên kia tiêu tiền do mồ hôi nước mắt của mình tích lũy nên.
Thứ hai, cách thức hỗ trợ của nhà nước ở hai mô hình cũng khác nhau. Điều kiện tồn tại của chaebol là phải nhanh chóng có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, mà cụ thể là sau một thời gian, thường là 5-7 năm phải xuất khẩu được. Trong khi đó, ở Việt Nam nhiều tập đoàn được hưởng “ngân sách mềm”, hưởng lợi thế độc quyền trên thị trường nội địa và không bị buộc phải xuất khẩu.
Thứ ba, các chaebol phát triển một cách hữu cơ, không hình thành bằng cách lắp ghép một cách máy móc. Ngược lại, ở Việt Nam, các tập đoàn được dựng lên bằng việc sáp nhập cơ học các doanh nghiệp nhà nước với nhau. Thêm nữa, do ra đời trong bối cảnh chưa có Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nên trong những năm 1960-1980, Chính phủ Hàn Quốc có thể sử dụng mọi biện pháp để hỗ trợ chaebol. Còn Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO nên không thể đi lại con đường của Hàn Quốc.
Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, bản thân Hàn Quốc cũng đã nhận ra rằng mô hình chaebol thực sự có vấn đề và cần phải cải cách. Cả thời, thế và cấu trúc tập đoàn đều đã thay đổi. Nói cách khác, Việt Nam đi theo một mô hình đã trở nên lỗi thời vào thời điểm không thích hợp. Hai cái sai cộng lại thì rất khó cho ra một kết quả đúng.
* Anh có nghĩ rằng những nhà hoạch định chính sách không nhìn thấy những khuyết tật của mô hình tập đoàn?
- Tôi không nghĩ như vậy. Có nhiều nguyên nhân nhưng chắc không phải do hạn chế về sự hiểu biết. So với tổng công ty, tập đoàn có khả năng tiếp cận vốn ngân sách, đất đai… lớn hơn rất nhiều. Người ta gắn cho nó những nhiệm vụ nghe có vẻ rất hay như tạo ra những “cú đấm thép”, trở thành những con tàu vươn ra biển lớn, cạnh tranh với thế giới.
Nhìn dưới góc độ tổng thể nền kinh tế, sự ra đời của tập đoàn không có lợi về nhiều mặt. Như đã nói ở trên, khoảng 50% tổng đầu tư xã hội được đổ vào các doanh nghiệp nhà nước, phần lớn là các tập đoàn, nhưng giá trị gia tăng và số lượng việc làm mới do những đơn vị này tạo ra lại thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp FDI.
Đóng góp của tập đoàn vào GDP cũng thấp, không tương xứng với những ưu đãi nhận được. Hơn nữa, việc tập đoàn được hưởng nhiều lợi thế về thị trường, vốn, đất đai còn gây ra hiệu ứng chèn ép đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chưa hết, nhờ vị thế rất lớn nên tập đoàn tạo ra những méo mó trên thị trường, thí dụ như độc quyền và việc bảo vệ thế độc quyền dẫn đến việc cản trở cải cách.
Một ví dụ là thời gian vừa qua Bộ Công Thương có đề xuất tái cấu trúc Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) bằng cách chia nhỏ EVN thành các công ty và để chúng cạnh tranh với nhau. Đề xuất này của Bộ Công Thương theo tôi là rất đúng hướng, thế nhưng EVN lại không mặn mà với đề xuất này vì như vậy có thể họ sẽ mất thế độc quyền hiện có. Mà nếu EVN không “ưng” thì việc tái cấu trúc EVN tuy đúng đắn nhưng cũng khó được triển khai.
* Đúng là tập đoàn có những lý do để tạo ra nhiều bất cập. Liệu còn giải pháp nào để sửa tập đoàn cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay?
- Giải pháp luôn luôn có, vấn đề là ý chí thực hiện như thế nào. Kể từ khi Viettel tham gia thị trường viễn thông, VNPT mất thế độc quyền thì chất lượng dịch vụ đã thay đổi rõ rệt, sóng phủ rộng hơn, giá rẻ hơn, và toàn nền kinh tế được lợi rất nhiều. Trong khi đó, ngành điện dù đã có thêm Petro Việt Nam, sản xuất điện bằng khí, nhưng tình trạng thiếu điện vẫn không được cải thiện, ngay cả trong mùa mưa. Nguyên nhân là EVN vẫn một mình một chợ, có thể định giá thấp hay từ chối mua điện của Petro Việt Nam.
Từ hai câu chuyện này, tôi nghĩ rằng vấn đề không hoàn toàn nằm ở chỗ tập đoàn của Nhà nước hay tư nhân, mà yếu tố quyết định là phải có cạnh tranh bình đẳng, phải xóa thế độc quyền. Bên cạnh đó, cũng cần phải thay đổi hệ thống quản trị của các tập đoàn, tạo ra động cơ kinh doanh có lợi nhuận.
Về phía Nhà nước, cần tách bạch ba chức năng: quản lý hành chính, sở hữu nhà nước, và điều tiết độc quyền trong việc quản lý tập đoàn nhà nước. Về phía doanh nghiệp, cần tách bạch chức năng kinh doanh và chức năng xã hội của các tập đoàn. Lấy ví dụ như EVN có thể kêu lỗ vì phải đầu tư hạ tầng để kéo điện lên vùng cao, hoặc phải phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Việc này là trách nhiệm của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Chính sự nhập nhằng giữa chức năng kinh tế và xã hội này là cái cớ để các tập đoàn biện bạch cho sự kém hiệu quả. Mặt khác, các tập đoàn sử dụng vốn ngân sách thì phải chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước bằng công tác kiểm toán công khai minh bạch, quy định đầu tư đến một ngưỡng nào đó thì phải chuyển qua một cơ quan thẩm định và giám sát đầu tư công độc lập.
* Thế còn vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì sao?
- Để đảm bảo tính minh bạch, những dự án cần phải được giao cho các tổ chức có tính khách quan hơn, chẳng hạn như Ủy ban Kinh tế hay Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan trực thuộc Chính phủ. Thực ra, thẩm định về kỹ thuật không khó, nhất là trong thời buổi hiện nay khi chúng ta có thể thuê các công ty tư vấn quốc tế giàu kinh nghiệm.
Chẳng hạn như một công ty tư vấn quốc tế có thể nói cho bạn biết rằng chi phí trung bình của đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải là 17 triệu USD/km, và từ đó đặt câu hỏi là tại sao chi phí trung bình của đường sắt cao tốc với chuẩn tương đương giữa Hà Nội và TP.HCM (tổng vốn đầu tư của dự án này là 56 tỉ USD, gồm các nguồn vốn vay viện trợ phát triển ODA của Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á - theo VOV) - lên tới 40 triệu USD/km, tức là cao gấp hơn hai lần.
* Chính sách được hoạch định tốt thì sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc. Nếu như có những lời mời tham gia hoạch định chính sách, anh nghĩ sao?
- Tôi tự xác định vị thế của mình là một trí thức độc lập. Cũng như một hệ thống điều khiển học, điều kiện tiên quyết để vận hành hiệu quả là phải có phản hồi. Vì vậy, khi trở thành một con ốc trong bộ máy nhà nước, chắc chắn tôi sẽ không thể phản hồi một cách khách quan.
Ở tất cả các quốc gia phát triển luôn tồn tại một đội ngũ trí thức độc lập, đóng góp tích cực và mạnh mẽ cho đời sống xã hội. Lực lượng này hành động vì lợi ích của đất nước. Họ cất tiếng nói luôn vì những điều lớn lao hơn cá nhân họ, và chính điều này khiến họ trở thành người trí thức. Để phát triển, xã hội luôn cần những trí thức suy nghĩ độc lập.
* Là người thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp, anh nghĩ thế nào về lực lượng này?
- Rõ ràng đây là bộ phận năng động trong nền kinh tế của chúng ta. Tinh thần doanh nhân của họ rất đáng khâm phục, dù gặp trăm ngàn khó khăn nhưng họ vẫn bơi được. Tuy nhiên, về cơ bản thì những doanh nghiệp này vẫn còn nhỏ quá, cụ thể là quy mô vốn và lao động trung bình của họ thấp hơn hàng chục lần so với khu vực doanh nghiệp nhà nước hay FDI.
* Thường xuyên tiếp xúc với doanh nghiệp, am hiểu về doanh nghiệp và am hiểu về cộng đồng này cũng như những bất cập của chính sách. Nếu làm kinh doanh, anh có nhiều điều kiện để thành công?
- Tôi lại nghĩ mình không có những phẩm chất để bước vào thương trường. Nếu dùng thuật ngữ kinh tế thì “lợi thế so sánh” của tôi là giảng dạy và nghiên cứu. Không vơ đũa cả nắm nhưng môi trường kinh doanh hiện nay ở Việt Nam đòi hỏi nhiều sự hy sinh về gia đình và trong một chừng mực nào đó là những quan niệm về giá trị. Nghiệm lại thì nghiệp của tôi là làm nhà giáo và nhà nghiên cứu, mà đã là cái nghiệp thì rất khó thay đổi.
* Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện này.

18 thg 4, 2011

Cách lập luận ấu trĩ và xa lạ

Cách lập luận ấu trĩ và xa lạ
QĐND - Chủ Nhật, 09/01/2011, 21:48 (GMT+7)
 
QĐND - Trong những ngày gần đây, trên nhiều trang mạng lại xuất hiện những bài viết viện dẫn văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nêu câu hỏi: “Quân đội nhân dân Việt Nam bảo vệ dân hay bảo vệ Đảng? ”. Và rằng: “Quân đội của một đất nước phải là lực lượng phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, không thể phục vụ cho lợi ích riêng cho một cá nhân, một nhóm lãnh đạo hay cho một đảng phái chính trị nào”…
Câu hỏi và cách lập luận này thật là ấu trĩ cả về lý luận và cũng rất xa lạ trong thực tiễn.  
Những ai có đôi chút kiến thức cơ bản về lịch sử nhà nước và quân đội đều biết rằng: Lực lượng vũ trang chuyên nghiệp xuất hiện đồng thời với sự ra đời của nhà nước. Đó là công cụ của nhà nước, một mặt là thực hiện chức năng cai trị của nhà nước, mặt khác là để bảo vệ lãnh thổ và các lợi ích khác của quốc gia - dân tộc (theo quan niệm của lực lượng cầm quyền). Bởi vậy, lẽ đương nhiên quân đội trước tiên phải bảo vệ nhà nước - người khai sinh và nuôi dưỡng nó.
Trong các xã hội hiện đại, lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng không bao giờ là trung lập với chế độ chính trị. Cũng như không có một cộng đồng, một xã hội nào lại không gắn với một chế độ chính trị, một nhà nước do một lực lượng chính trị, thường là một giai cấp hoặc liên minh giai cấp mà đại diện là các đảng chính trị nào đó lãnh đạo, cầm quyền. Bởi vậy, đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quân đội luôn luôn có nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ nhà nước hiện hữu.
Ở Việt Nam, quan hệ giữa Đảng Cộng sản với Quân đội ta là một mối quan hệ đặc biệt. Quân đội ta ra đời trước khi có nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo. Trong suốt 30 năm kháng chiến chống đế quốc xâm lược (từ 1945 đến năm 1975), Đảng ta không chỉ lãnh đạo toàn diện công cuộc kháng chiến, kiến quốc của toàn dân mà còn trực tiếp lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối quân đội ta. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Đảng ủy các cấp là người trực tiếp lãnh đạo, xây dựng, tổ chức lực lượng, chỉ đạo các hoạt động của quân đội ta. Những quyết định quan trọng nhất trong hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chống đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đều bắt đầu từ những quyết định của Bộ Chính trị. Những chiến dịch mang tính quyết định của chiến tranh như chiến dịch Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ chính trị đều trực tiếp chỉ đạo. Bởi vậy, bảo vệ Đảng chính là bảo vệ bộ tham mưu tối cao của cách mạng Việt Nam. Vậy thì  quân đội ta đương nhiên phải bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng chính là bảo vệ nhân dân, phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân” cũng để chỉ rõ sứ mệnh của quân đội ta là bảo vệ chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong chiến lược "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, biến lực lượng vũ trang thành công cụ thực hiện âm mưu bạo loạn, lật đổ nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo là mục đích cuối cùng của chúng. Chính vì vậy, chúng ta không thể xao nhãng đối với các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý, chiến tranh tư tưởng, phá hoại mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và Quân đội ta.
Trong chế độ ta, không có sự đối lập về lợi ích giữa Đảng với dân tộc và nhân dân. Quân đội ta cũng chưa bao giờ chỉ là công cụ “phục vụ lợi ích riêng của một cá nhân, một nhóm lãnh đạo hay một đảng phái chính trị nào” như có người đã ám chỉ trong bài viết tung lên mạng. Có thể nói những luận điệu trên không chỉ là một sự ấu trĩ về chính trị, xuyên tạc lịch sử, mà còn là một sự xúc phạm danh dự của quân đội ta – một đội quân sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ - đội quân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Trong văn kiện Đảng khẳng định quân đội ta có nhiệm vụ “Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân” thì đó không phải là một trật tự ưu tiên, mà để chỉ rõ những nhiệm vụ chính trị cụ thể của quân đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đồng thời ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch phá hoại nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội.
Để kết thúc bài viết này chúng tôi xin được trích Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XI về công tác quốc phòng - an ninh,  liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Quân đội để chứng minh đầy đủ hơn quan điểm của Đảng ta về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và thấy mối liên hệ đồng nhất giữa bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam là một sự thống nhất không thể tách rời: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc… thực hiện tốt mục tiêu, nhiêm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN… chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”(1).

Nguyễn Doãn Hải

http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/5/5/5/135205/Default.aspx

13 thg 4, 2011

Thực trạng kinh tế Việt Nam qua số liệu quý 1/2011

Chính phủ vừa ban hành Nghị Quyết 11 đề ra một loạt các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, theo đó, chính sách tiền tệ và tài khóa đều buộc phải thắt chặt.
Ngoài ra, Chính phủ cũng tăng cường sử dụng các biện pháp hành chính như siết lại các hoạt động mua bán vàng và ngoại tệ trên thị trường tự do, NHNN đưa ra thông tư luật hóa trần lãi suất huy động không quá 14%.
Những giải pháp trên nhằm giải quyết các bất ổn vĩ mô trong ngắn hạn nhưng đổi lại Việt Nam phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại, lãi suất cao gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Đây cũng là một tín hiệu cho thấy kinh tế năm 2011 sẽ tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn.
TÌNH HÌNH KINH TẾ VĨ MÔ QUÝ 1 VÀ DỰ BÁO CẢ NĂM 2011
1. Tỷ lệ đầu tư vẫn cao nhưng tăng trưởng kinh tế đã suy giảm
Tăng trưởng kinh tế giảm mạnh. Theo Tổng cục Thống kê, Tổng giá trị GDP trong quý 1 tính theo giá thực tế đạt 441.70 nghìn tỷ đồng, theo giá năm 1994 đạt 109.31 nghìn tỷ đồng. Tăng trưởng kinh tế trong quý 1/2010 đạt 5.43%, trong đó tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 5.47%, nông nghiệp đạt 2.05 % và dịch vụ đạt 6.28%.
Trước đó, trong năm 2010 tăng trưởng GDP quý 4 đạt 7.34%, quý 3 đã đạt 7.18%, còn quý 1 và quý 2 lần lượt đạt 6.4% và 5.83%.
Như vậy, quý 1/2011 là giai đoạn có tăng trưởng GDP thấp nhất kể từ quý 3/2009 đến nay.
Tăng trưởng kinh tế quý 1 khá thấp ngoài tính chu kỳ còn do tác động của bất ổn vĩ mô. Lãi suất và lạm phát cao buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu làm giảm tổng cầu trong nền kinh tế.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế suy giảm mạnh nhưng sản xuất công nghiệp trong quý 1 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng 14.4%, cao hơn mức 14% trong năm 2010. Trong đó, tăng trưởng sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế nhà nước chỉ tăng 3.6%, ngoài nhà nước tăng 17.4% và khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 16.8%.
Tỷ lệ đầu tư vẫn cao và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện. Cũng theo Tổng cục Thống kê, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội quý 1/2011 vào khoảng 171.5 nghìn tỷ đồng, tăng 14.7% so cùng kỳ và bằng 38.8% của GDP.
Trong đó, khu vực nhà nước đầu tư 76.4 nghìn tỷ đồng, chiếm 44.5% và tăng 15.2%; khu vực ngoài nhà nước 45.6 nghìn tỷ đồng và chiếm 26.6%, tăng 28.5%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài 49.5 nhìn tỷ đồng chiếm 28.9% và tăng 3.8% so với cùng kỳ.
Số liệu trên cho thấy đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao trong nền kinh tế. Trong khi đó, hiệu quả đầu tư vẫn ở mức rất thấp thể hiện qua hệ số ICOR quý 1 đang ở mức 7.15 lần, cao hơn con số 6.2 lần của cả năm 2010.
Chất lượng đầu tư thấp cho thấy tính bền vững trong tăng trưởng của nền kinh tế đang gặp thách thức nghiêm trọng.
Nhận định: Những phân tích trên cho thấy kinh tế Việt Nam năm 2011 chắc chắn sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Thêm vào đó Nghị quyết 11 của Chính phủ cũng cho thấy các chính sách tài khóa và tiền tệ sẽ đồng thời được thắt chặt trong thời gian tới để phục vụ mục tiêu ổn định vĩ mô. Do vậy, mục tiêu tăng trưởng 7-7.5% đề ra đầu khó có khả năng đạt được.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận là nếu tốc độ tăng trưởng giảm để nâng cao chất lượng đầu tư, ổn định kinh tế vĩ mô thì đây là một tín hiệu tích cực hơn việc tăng trưởng bằng mọi giá.
Chúng tôi cho rằng kinh tế Việt Nam chưa có nhiều chuyển biến đáng kể trong quý 2 và quý 3/2011. Kinh tế chỉ phục hồi vào quý 4 nếu các bất ổn vĩ mô hiện thời dần đi vào ổn định.
Tính toán của chúng tôi cho thấy GDP năm 2011 của Việt Nam chỉ tăng trưởng vào khoảng 6.4%.
2. Lạm phát gia tăng gây áp lực cho bất ổn trong nền kinh tế
CPI tháng 3/2011 tăng 2.17% so với tháng 2, và như vậy đã tăng 6.12% so đầu năm và tăng 13.89% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 3 có mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2008 đến nay. Trước đó, CPI tháng 12/2010 tăng 1.98%, tháng 1/2011 tăng 1.74% và tháng 2 tăng 2.09%.
Xét theo các mặt hàng cụ thể, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1.98%, lương thực tăng 2.18%, thực phẩm tăng 1.57% so với tháng trước.
Mức tăng cao nhất thuộc về nhóm giao thông với mức tăng 6.69% do chịu tác động mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu.
Tiếp ngay sau mức tăng mạnh trên thì CPI nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng thêm tới 3.67% do chịu ảnh hưởng của tăng giá chất đốt, thép xây dựng, xi măng và nhiều loại vật liệu xây dựng khác.
Ngoài ra, CPI của hầu hết các nhóm hàng hóa khác cũng tăng khá mạnh.
Thông thường CPI tháng 3 giảm là do tháng 2 thường trùng với dịp Tết âm lịch, nhu cầu tiêu dùng tăng đẩy giá hàng hóa tăng, nhưng đến tháng 3 tiêu dùng giảm làm cho giá cũng giảm theo.
Khác với những năm trước, giá hàng hóa tháng 3 năm nay chịu tác động của việc điều chỉnh tỷ giá, giá xăng và giá điện đã làm cho nhiều mặt hàng bị kìm nén giá trước đó đồng loạt bung ra. Ngoài ra, cũng không ít mặt hàng tăng giá do ”tát nước theo mưa”.
Ngoài các nguyên nhân có tính ngắn hạn và có phần khách quan kể trên thì nguyên nhân cơ bản làm cho lạm phát tăng mạnh vẫn do các yếu kém trong nội tại nền kinh tế.
Có thể dẫn chứng các yếu tố như hiệu quả đầu tư thấp khi hệ số ICOR liên tục ở mức 6-8 lần trong mấy năm gần đây, và tăng trưởng tín dụng và cung tiền lại quá cao.
Tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt trung bình khoảng 7% nhưng tăng trưởng tín dụng luôn duy trì quanh mức 30%, tăng trưởng cung tiền cũng ở mức tương ứng. Do vậy, lạm phát do cung tiền như là một hệ quả tất yếu của việc mất cân đối giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra.
Nhận định: Chính phủ vừa đưa ra một loạt các biện pháp kể cả tài chính và tài khóa nhằm kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, gần như chắc chắn lạm phát sẽ còn tiếp tục duy trì xu hướng gia tăng trong thời gian tới.
Chúng tôi cho rằng sức ép về lạm phát của Việt Nam vẫn rất lớn kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Về ngắn hạn, với độ trễ từ 5-7 tháng của chính sách tiền tệ và tài khóa thì lạm phát vẫn tiếp tục cao trong 4-6 tháng tới bất chấp việc NHNN hiện nay đang thắt chặt chính sách tiền tệ.
Chúng tôi dự báo CPI trong tháng 4 có thể tăng khoảng 1.2-1.5% và năm 2011 có thể tăng 12-13%.
3. Áp lực tỷ giá vẫn lớn dù Việt Nam dù dòng ngoại tệ vào vẫn dương
NHNN buộc phải giảm giá tiền đồng. Kể từ năm 2008 đến nay, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng của nền kinh tế. Chỉ trong vòng chưa đến 2 năm tiền đồng đã mất giá hơn 20% so với đồng USD. Còn nếu tính từ ngày 18/8/2010 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải 2 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng với tổng cộng tăng 11.58%.
Đặc biệt đợt điều chỉnh ngày 11/02/2011, tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 18,932 lên 20,693 VND/USD, tăng 9.3%, đây là mức điều chỉnh 1 lần cao nhất kể từ năm 1994 đến nay. Cùng với quyết định này, NHNN quyết định giảm biên độ giao động từ +/-3% xuống còn +/-1%, cho nên thực chất tỷ giá niêm yết chỉ tăng thêm 7.2%.
Tuy nhiên, thực tế sau thời gian điều chỉnh tỷ giá, tình trạng chênh lệch tỷ giá trên thị trường tự do và thị trường chính thức vẫn giãn ra. Mức đỉnh điểm tỷ giá trên thị trường tự do có thời điểm lên tới 22,500 VND/USD, cao hơn tỷ giá chính thức tới 1,500 đồng so với tỷ giá chính thức, vào giữa cuối tháng 2.
Trước thực trạng đó, Chính phủ buộc phải thực hiện các biện pháp nhằm giữ ổn định tỷ giá. Trong đó Chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng và ”siết” lại các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do.
Ngoài ra, NHNN còn nâng lãi suất tái chiết khấu lên 12% và trong tháng 2 và tháng 3 năm 2010 đã hút ròng gần 80 nghìn tỷ đồng qua thị trường mở.
Những biện pháp này đã phát huy hiệu quả khi tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống chỉ còn quanh mức 21,300 VND/USD.
Một số nguyên nhân sâu xa của việc đồng nội tệ suy giảm. Tỷ giá trên thị trường phản ánh cung cầu ngoại tệ và sức mua của đồng tiền trong một nền kinh tế. Do vậy, những yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ như thâm hụt cán cân thanh toán, lòng tin đồng nội tệ suy giảm, tình trạng đô la hóa tăng mạnh hoặc lạm phát quá cao đều ảnh hưởng đến tỷ giá.
Tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn: Bản chất một nền kinh tế nhập siêu khiến cho cán cân tài khoản vãng lai (current account) của Việt Nam liên tục bị thâm hụt khoảng 10 - 12% GDP trong những năm gần đây.
Khoản thâm hụt này được bù đắp bởi cán cân tài khoản vốn gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI), vốn vay (ODA, vay thương mại của Chính phủ và doanh nghiệp), các dòng kiều hối.
Những con số thống kê chính thức đều cho thấy dòng vốn ròng vào Việt Nam đang thặng dư, tức là dòng ngoại tệ vào vẫn lớn hơn dòng ngoại tệ ra. Tuy nhiên, có một thực tế thì đồng tiền lại liên tục mất giá, dự trữ ngoại hối của NHNN suy giảm.
Cụ thể, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào cuối năm 2008 là 24.2 tỷ USD. Cuối tháng 2/ 2011, theo số liệu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 10 tỷ USD.
Theo ước tính của IMF, cán cân tổng thể năm 2009 của Việt Nam thâm hụt 8.2 tỷ USD và năm 2010 là 3 tỷ USD.
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là khoản mục Sai số bỏ sót trong bảng Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam năm 2009 và 2010 đều lên đến 13.5 tỷ USD. Điều này cho thấy một lượng ngoại tệ rất lớn trong nền kinh tế không thể thống kê được.
Lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng: Đây là nguyên nhân giải thích phần nào cho hiện tượng nghịch lý nói trên. Việc tiền đồng liên tục bị mất giá đã kích hoạt nhu cầu nắm giữ USD của người dân và doanh nghiệp. Việc người dân tăng cường nắm giữ USD khiến cho tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng và cầu USD tăng, dẫn tới tiền đồng luôn chịu áp lực bị mất giá. Tình trạng đô la hóa còn được thể hiện qua việc rất nhiều giao dịch trong nền kinh tế được sử dụng bằng ngoại tệ này.
Tuy nhiên, cần lưu ý đây chỉ là hệ quả của những bất ổn vĩ mô khác trong nền kinh tế; nhưng sau đó trở lại làm trầm trọng thêm các bất ổn vĩ mô.
Lạm phát cao gây sức ép lên tỷ giá hối đoái thực: Một trong những nguyên nhân quan trọng làm mất giá của tiền đồng là do lạm phát ở Việt Nam luôn cao vượt trội so với các nền kinh tế khác. Do vậy, theo nguyên lý sức mua tương đương thì đồng nội tệ sẽ phải mất giá một tỷ lệ tương ứng với chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Năm 2010, VND mất giá hơn 10% so với đồng USD, con số này cũng tương ứng với khoảng cách lạm phát của Việt Nam và Hoa Kỳ khoảng 10%.
Nhận định: Các giải pháp hành chính của Chính phủ đã có tác dụng nhất định làm hạ nhiệt tỷ giá trên thị trường chợ đen. Mức chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa 2 thị trường này hiện nay chỉ còn 200 đến 300 đồng. Tuy nhiên, đây không phải là một giải pháp hiệu quả về dài hạn. Nguyên nhân bất ổn tỷ giá của Việt Nam xuất phát chủ yếu từ những yếu tố nội tại trong nền kinh tế và cách thức điều hành của NHNN.
Chúng tôi cho rằng VND sẽ tiếp tục chịu áp lực giảm giá trong thời gian tới do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai còn lớn và lạm phát cao. Ngoài ra, các dòng ngoại tệ đổ vào Việt Nam cũng bị hạn chế. Tỷ giá vào cuối năm 2011 có thể mất 7-8% so với hiện nay và lên 22,500 VND/USD.
4. Giảm tăng trưởng tín dụng để kiềm chế lạm phát
Tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức rất cao. Quý 1/2011, ước tính tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 5% so với cuối năm trước, đây là mức cao hơn khá nhiều so với mức 3.34% của quý 1/2011. Với mức tăng trưởng này, tăng trưởng tín dụng đến tháng 3 vẫn duy trì ở mức 32% (YoY) so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2009, tín dụng tăng mạnh cùng với gói hỗ trợ 4% lãi suất và chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN. Kết thúc năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng tới 37% và đã gây áp lực mạnh lên lạm phát trong rotng năm 2010. Tín dụng năm 2010 tăng 29.89%, trong đó tín dụng bằng ngoại tệ tăng 37.7%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 25.3%. Tăng cung tiền M2 lên tới 25.5%, vượt mục tiêu đặt ra đầu năm.
Như vậy, tăng trưởng tín dụng trong quý 1 vẫn khá cao, bất chấp lãi suất trong nền kinh tế cao. Điều này càng thể hiện tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư.
Với mức tăng trưởng tín dụng cao đó thì áp lực lạm phát trong thời tới vẫn còn lớn. Mục tiêu giữ mức tăng trưởng tín dụng của NHNN trong năm 2011 dưới 20% không phải dễ dàng thực hiện.
Trong trường hợp Chính phủ muốn thực hiện mục tiêu nay để kiềm chế lạm thì phải chấp nhận lãi suất luôn ở mức cao trong năm 2011. Không những vậy, Chính phủ phải giảm việc phát hành trái phiếu, giảm đầu tư công để giảm áp lực về cầu vốn cho thị trường tiền tệ.
Thăt chặt chính sách tiền tệ là cần thiết để kiềm chế lạm phát. Bước sang năm 2011 lãi suất tiếp tục lên ở mức rất cao, lãi suất cho vay tiêu dùng đã lên tới 25-30%, còn lãi suất cho vay sản xuất cũng quanh mức 20%.
Mặc dù lãi suất cao như vậy nhưng dưới sức ép của lạm phát cao NHNN vẫn buộc phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ. NHNN đã hạ mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ mức 23% xuống còn dưới 20%, tăng trưởng cung tiền cũng được điều chỉnh giảm 15-16%.
Để thực hiện mục tiêu trên ngày 08/03/2011, NHNH ban hành quyết định tăng lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm lên 12%. Mức lãi suất tái chiết khấu chỉ còn kém 1% so với mức đỉnh 13% của thời kỳ ”siêu lạm phát” năm 2009.
Cùng với việc nâng lãi suất chính sách, chỉ trong vòng tháng 2 và tháng 3 vừa qua NHNN đã hút về gần 80 nghìn tỷ đồng trên thị trường mở.
Ngoài ra, NHNN vừa ban hành Thông tư 02 trong đó luật hóa trần huy động lãi suất 14%. Điều này đã gây khó khăn cho rất nhiều ngân hàng nhỏ khi huy động vốn trên thị trường. Thực tế thể hiện qua việc các ngân hàng lại ”chạy đua” tăng lãi suất không kỳ hạn và lãi suất ngắn hạn 1-2 tuần lên gần bằng mức trần. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng lên cơn sốt. Lãi suất qua đêm cao hơn các kỳ hạn dài hơn và có những giao dịch lãi suất đã vượt mức 20%.
Bất chấp lãi suất cao và căng thẳng trên thị trường tiền tệ NHNN đang cân nhắc quyết định tăng dự trữ bắt buộc. Hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng nội tệ chỉ là 1 và 3%, với mức kỳ hạn là trên và dưới 12 tháng, đây là mức rất thấp so với khoảng thời gian trước đó. Đối với ngoại tệ, ngày 09/03/2011, NHNN vừa quyết định nâng dự trữ bắt kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn trên 12 tháng từ 2% lên 4%.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là với quy định Thông tư 13, các tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng không quá 80% số vốn huy động thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực tế cao hơn rất nhiều so với con số chính thức trên.
Do vậy, nếu NHNN tiếp tục tăng dự trữ bắt buộc mà vẫn giữ nguyên quy định tại Thông tư 13 thì hệ thống ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Nhận định: Chúng tôi cho rằng các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN là một bước đi đúng hướng trong việc kiềm chế lạm phát. Trước mắt toàn bộ nền kinh tế sẽ phải chịu tác động rất mạnh bởi lãi suất tăng cao và tín dụng khan hiếm. Tăng trưởng kinh tế có thể chậm lại.
Chính sách tiền tệ chỉ có thể nới lỏng hơn từ quý 3/2011 nếu tình hình lạm phát được khống chế. Tuy nhiên, với việc nền kinh tế đã ”quen” một tỷ lệ đầu tư/GDP cao thì mức giới hạn tăng trưởng tín dụng dưới 20% vẫn sẽ là một thách thức rất lớn.
5. Thương mại phục hồi mạnh mẽ nhưng cơ cấu xuất khẩu chưa được cải thiện
Xuất khẩu quý 1 tăng mạnh nhờ kinh tế thế giới phục hồi. Mặc dù kinh tế trong nước tăng chậm trong quý 1 nhưng nhờ sự phục hồi mạnh của kinh tế thế giới và giá cả hàng hóa tăng, xuất khẩu trong quý 1 cũng tăng trưởng rất mạnh.
Theo Tổng cục Thống kê, ước tính xuất khẩu trong tháng 1 đạt 7.1 tỷ USD, đưa kim ngạch xuất khẩu cả quý 1/2010 lên 19.2 tỷ USD, tăng 33.7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8.8 tỷ USD, tăng 40.1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10.4 tỷ USD, tăng 28.7%.
Một số mặt hàng có đơn giá xuất khẩu tăng cao như giá cao su tăng 70%; hạt tiêu tăng 60%; cà phê tăng %; hạt điều tăng 37,8%; than đá tăng 56%... Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch xuất khẩu quý I đạt 17.5 tỷ USD, tăng 21.7% so với cùng kỳ năm 2010.
Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như Dệt may đạt 2.8 tỷ USD, tăng 27.9%, Thủy sản đạt 1.1 tỷ USD, tăng 30.5%, Cà phê đạt 1 tỷ USD, tăng 115.1%. Xuất khẩu Dầu thô đạt 1.56 tỷ USD, tăng 15.7%, xét về lượng giảm 12.3%.
Nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng mạnh. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 3/2011 ước đạt 8.2 tỷ USD, tăng 37.6% so với tháng trước. Tính chung quý 1/2011, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 22.3 tỷ USD, tăng 23.8% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 12.8 tỷ USD, tăng 20.7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9.5 tỷ USD, tăng 28.4%.
Trong đó, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3.4 tỷ USD, tăng 14.8% so với cùng kỳ năm trước; Xăng dầu đạt 2.4 tỷ USD tăng 53.8%; Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1.3 tỷ USD, tăng 29.7%; Vải đạt 1.4 tỷ USD, tăng 42%; Chất dẻo đạt 1.1 tỷ USD, tăng 40.1%
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý 1 tăng do cả yếu tố lượng tăng và giá nhập khẩu một số mặt hàng trên thị trường thế giới tăng. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý 1 tăng 14.7% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập siêu đang được kiểm soát dưới 16% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tháng 3/2011 ước tính 1.15 tỷ USD, bằng 16.3% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu quý 1 là 3.1 tỷ USD, bằng 15.7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Trước đó, năm 2008 thâm hụt thương mại lên tới đỉnh điểm 18 tỷ USD, bằng gần 20% GDP. Trong năm 2009 và năm 2010, thâm hụt thương mại giảm xuống còn 12.84 tỷ USD và 12.4 tỷ USD.
Tình trạng thâm hụt thương mại của Việt Nam đã kéo dài trong nhiều năm và vẫn chưa có dấu hiệu được cải thiện. Năm 2011, Chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát thương mại dưới 16% kim ngạch xuất khẩu, tương đương khoảng 13.5-14 tỷ USD. Đây là con số rất cao so với rất nhiều quốc gia khác.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng nhập siêu của Việt Nam là do chúng ta phát triển dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư nước ngoài (chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư quá lớn (thường trên 10% GDP)). Ngoài ra, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, có giá trị gia tăng thấp, còn các mặt hàng chế biến chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn các máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, gia công.
Nhận định: Xuất nhập khẩu trong quý 1 tăng mạnh là một tín hiệu tốt đối với nền kinh tế. Kim ngạch nhập khẩu nguyên vật liệu tăng mạnh về lượng cho thấy sức sản xuất trong nền kinh tế vẫn đang được duy trì.
Trong khi đó vấn đề nhập siêu không dễ khắc phục vì nó có tính cơ cấu trong đầu tư và sản xuất của nền kinh tế. Do vậy, Việt Nam buộc phải chấp nhận tỷ lệ nhập siêu cao trong một số năm tới. Về dài hạn cần phải thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế để Việt Nam không còn quá phụ thuộc vào vốn đầu tư từ bên ngoài. Các mặt hàng xuất khẩu hướng tới những hàng hóa có giá trị gia tăng cao và nằm trong chuổi giá trị toàn cầu.
Chúng tôi vẫn cho rằng tăng trưởng xuất nhập khẩu năm 2011 từ 12-15%. Nhập siêu hàng hóa và dịch vụ khoảng 14.5 tỷ USD.
6. Dòng vốn đầu tư vào Việt Nam đang chậm lại
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tính từ đầu năm đến ngày 22/3/2011 đạt 2.37 tỷ USD, giảm 33.1% so với cùng kỳ năm 2010. Trong khi đó, vốn thực hiện ước tính đạt 2.54 tỷ USD, tăng 1.6% so với cùng kỳ năm 2010.
Như vậy, vốn đăng ký giảm mạnh tuy không hẵn là một tín hiệu tiêu cực nhưng là một hồi chuông cảnh tỉnh đối với những người quá kỳ vọng vào dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Trong suốt những năm vừa qua vốn đăng ký vào Việt Nam khá lớn. Tuy nhiên, con số thực tế giải ngân quanh mức 10 đến 12 tỷ USD và tốc độ tăng đang chững lại.
Gần đây, một số dự án có mức đầu tư hàng tỷ USD bị rút chứng nhận đầu tư do chủ đầu tư thiếu năng lực tài chính. Bên cạnh đó, có nhiều cảnh báo của các nhà kinh tế về việc các nhà đầu tư nước ngoài đang chuyển công nghệ lạc hậu, ô nhiễm và tốn năng lượng vào Việt Nam hay tình trạng chiếm đất và ”kinh doanh dự án” của một số nhà đầu tư nước ngoài.
Do vậy, đã đến lúc cần quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng vốn đầu tư nước ngoài.
Nhận định: Dòng vốn đầu tư nước ngoài đang chững lại. Nguyên nhân ngoài những bất ổn vĩ mô trong nước thì sâu xa hơi khả năng hấp thụ vốn của Việt Nam chưa thực sự tốt.  Chúng tôi cho rằng đầu tư nước ngoài sẽ khó tăng mạnh trong năm này. Mức giải ngân cả năm ước tính vào khoảng 12-13 tỷ USD.
Hồ Bá Tình, Phòng Nghiên cứu Vietstock

CUBA: LIỆU CÓ THỂ ÁP DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM?

Tài liệu tham khảo đặc biệt

Thứ Hai, ngày 11/04/2011

TTXVN (La Habana 6/4)
Tờ Rebelion mới đây đã đăng bài viết của giáo sư Julio A. Diaz Vazquez, thuộc Trung tâm nghiên cứu kinh tế quốc tế Đại học La Habana, liên quan tới chính sách “Cập nhập hoá” mô hình kinh tế của Cuba. Dưới tiêu đề “Mô hình kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam liệu có thể áp dụng tại Cuba?”, tác giả viết:
Dự thảo “Đường lối chính sách kinh tế và xã hội”, sẽ được xem xét và thông qua tại Đại hội Đảng Cộng sản Cuba lần thứ VI tới đây, đã khiến mọi người đặt ra nhiều câu hỏi. Người ta bàn luận cả ở trong nước lẫn nước ngoài. Kinh nghiệm của các chính sách cải cách kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam liệu có được áp dụng tại Cuba hay không?
Việc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ cùng với việc Liên Xô tan rã đã chôn vùi lý thuyết mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa mà trên thực tế kinh nghiệm thực hiện mô hình này chỉ có Liên Xô hiểu nhất. Trong giai đoạn 1953-1957, Trung Quốc đã áp dụng một vài điểm của mô hình này. Trong giai đoạn 1958-1976 (trừ thời kỳ đứt quãng 1961-1965), Trung Quốc đã cố gắng sáng tạo ra một mô hình xã hội chủ nghĩa khác với mô hình Xô Việt, trước tiên là “Công xã Nhân dân” và sau đó là “Cách mạng Văn hoá”. Trong giai đoạn 1978-2010, Trung Quốc áp dụng chính sách “Cải cách-Mở cửa” và nền kinh tế Trung Quốc đã gặt hái nhiều thành công. Trung Quốc trở thành tâm điểm chú ý của thế giới.
Vào năm 1975, Việt Nam đã thống nhất đất nước sau hơn 30 năm chiến đấu kiên cường chống giặc ngoại xâm. Người ta áp dụng mô hình kinh tế tập trung trên toàn quốc, mô hình này trước đó đã được áp dụng nhiều năm tại miền Bắc. Phao cứu sinh cho mô hình này đó là khoảng 80% ngân sách nhà nước do hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cung cấp, đặc biệt là Liên Xô. Kết quả của nền kinh tế tập trung này thật tồi tệ: Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với nạn đói. Vào giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam bắt đầu áp dụng chính sách “Đổi mới”. Trong 20 năm gần đây, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Việt Nam đạt mức tăng trung bình 6%. Trong rất nhiều những thành tựu sản xuất rõ ràng mà Việt Nam đạt được có việc nước này hiện là quốc gia xuất khẩu cà phê một thế giới và xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Tỷ lệ người nghèo giảm xuống chỉ còn 10%.
Sự thất bại của chủ nghĩa xã hội tại châu Âu, những thay đổi tại Trung Quốc và Việt Nam hay những gì đang diễn ra ở Bắc Triều Tiên cho thấy có thể hình thành những mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa mới hoàn toàn chẳng giống với lý thuyết hay thực hành trên thực tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của những mô hình mới phù hợp với thực tế địa chính trị chiến lược của thế kỷ XXI cũng như hoàn cảnh và điều kiện của mỗi quốc gia là hoàn toàn có thể, và điều này củng cố tính đa dạng của mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tại Cuba, việc thực hiện “Cập nhật hoá” mô hình kinh tế khẳng định rằng cách mạng, chủ nghĩa xã hội và độc lập chủ quyền gắn kết chặt chẽ.
Tiếp tục bước đi của Trung Quốc và Việt Nam sẽ đem lại kết quả tích cực, nhưng sự khác biệt về địa lý, đời sống văn hoá – xã hội và nhiều yếu tố khác cũng cần phải nhìn nhận kỹ lưỡng. Bên cạnh đó, tăng trưởng và phát triển là điều tối cần thiết và là mệnh lệnh để Cuba không bị sa lầy trên con đường đi của mình. Trung Quốc và Việt Nam thực hiện cải cách đều chấp nhận những thách thức của tiến trình toàn cầu hoá và chấp nhận cạnh tranh với những luật chơi của nền kinh tế thế giới. Trong khi đó, Cuba tại Mỹ Latinh không những phải đương đầu với những thách thức của toàn cầu hoá, mà còn phải tái hội nhập với nền kinh tế quốc tế vô cùng năng động, những thách thức này càng trở nên khó khăn hơn do chính sách thù địch và bao vây, cấm vận do Mỹ áp đặt. Có nhiều yếu tố mà Cuba không thể không bỏ qua:
1 – 75% dân số Cuba sống ở thành thị, trái với Trung Quốc và Việt Nam. 56% dân số Trung Quốc sống ở nông thôn và ở VIệt Nam tỷ lệ này lên tới 80%. Ở một chừng mực nào đó, điều này giải thích tại sao tại hai quốc gia này người ta đã phải vô cùng nỗ lực để thực hiện chính sách cải cách, hội nhập kinh tế thị trường và phát triển doanh nghiệp. Về mặt lịch sử, Cuba cũng là quốc gia có nền “kinh tế nông nghiệp” nhưng hoàn toàn khác với “kinh tế nông nghiệp” của Trung Quốc và Việt Nam.
2 – Các vùng miền và đặc tính đa dân tộc của các nước này cũng tạo nên sự khác biệt: khu vực giàu nghèo, giao thông, thông tin… những yếu tố này ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ thực hiện các chính sách cải cách. Tại Trung Quốc, sự khác biệt về đời sống kinh tế ở các vùng miền rất lớn. Tại Việt Nam, ngoài sự lạc hậu từ nhiều đời nay và nền kinh tế chậm phát triển, khoảng cách ngày càng gia tăng giữa miền Bắc và miền Nam là một thách thức lớn. Trong khi đó, Cuba, không có sự khác biệt lớn giữa các khu vực.
3 – Về khía cạnh văn hoá, vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các nhà tri thức tại Trung Quốc đã khơi mào tranh luận về luồng tư tưởng phương Tây hướng tới phát triển công nghệ và dân chủ. Còn tại Việt Nam, một quốc gia từng là thuộc địa của Pháp, người ta cởi mở hơn nhiều với những tư tưởng này. Còn ở Cuba, điều này hoàn toàn ngược lại. Cuba là một quốc gia mà gốc rễ và nền văn hoá được ra đời từ trong lòng văn hoá phương Tây. Ngoài ra, cần phải nhìn nhận rằng cả hai quốc gia châu Á này đều có một nền lịch sử văn hoá làng xã từ hàng nghìn năm nay, truyền thống gia đình đã ăn sâu vào lối sống và lối suy nghĩ của người dân các quốc gia này. Điều này hoàn toàn khác biệt với văn hoá Cuba.
Vậy kinh nghiệm cải cách kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam sẽ có ích gì cho Cuba?
1-     Nó chứng tỏ mô hình kinh tế Xô Viết không thể sửa đổi được.
2-     Những thay đổi từ “Cải cách-Mở cửa” ở Trung Quốc cũng như “Đổi mới” ở Việt Nam đều do thế hệ lão thành cách mạng đề ra. Những thay đổi này góp phần hình thành những mô hình khác với mô hình xã hội chủ nghĩa mà người ta biết đến trên lý thuyết.
3-     Có vẻ hữu hiệu khi thử nghiệm việc thể chế hoá mối quan hệ thị trường.
Tuy nhiên, không được quên rằng thị trường cũng có hai mặt của nó. Một mặt thị trường khuyến khích sản xuất và thương mại, khuyến khích sự năng động, làm hàng hoá tràn ngập khắp nơi… Đó là không kể tới có sự phân biệt đẳng cấp giữa những người lao động. Mặt khác, thị trường làm gia tăng sự tham lam, những tư tưởng và bản năng thấp hèn, sự ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân. Bản chất tự nhiên của thị trường không phải là tư bản chủ nghĩa cũng chẳng phải là xã hội chủ nghĩa.
4-     Không được kìm hãm mà cần khuyến khích tính sáng tạo của các công dân.
5-     Nghiên cứu vai trò tích cực của nền công nghiệp nông thôn Trung Quốc.
Kinh nghiệm của Việt Nam và Trung Quốc đều bắt đầu từ cải cách mối quan hệ ruộng đất. Việt Nam cần giải quyết khẩn cấp tình trạng thiếu lương thực, trong khi tại Trung Quốc, tình trạng đói kém không tới nỗi cấp bách như Việt Nam nhưng cũng cần phải loại trừ những mối đe doạ tiềm ẩn từ nạn đói, đảm bảo tăng trưởng sản xuất liên tục, nâng cao đời sống nông dân, loại bỏ nhập khẩu và đảm bảo có sự đồng thuận cao và sự ủng hộ trên khắp đất nước đối với tiến trình cải cách. Ở Trung Quốc, người ta phân chia đất theo đầu người trong mỗi hộ gia đình và hiện tại quyền sử dụng đất được kéo dài tới 30 năm và người dân hoàn toàn có quyền ký lại hợp đồng sử dụng đất thêm 30 năm nữa phù hợp với quyền thừa kế và quyền sử dụng đất. Ban đầu, nông dân phải nộp cho hợp tác xã 70% sản lượng thu hoạch và số còn lại được bán tự do trên thị trường. Sau này, sản lượng thu hoạch phải nộp cho nhà nước giảm đáng kể và lượng hàng hoá được bán tự do tăng nhiều. Đây là dấu chấm hết cho việc áp dụng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa nổi tiếng: bán đắt-mua rẻ trong mối quan hệ nông thôn và thành thị.
Một vấn đề quan trọng khác cần phải nói đến đó là nền kinh tế cần phải hoạt động phù hợp với những yếu tố cấu thành của thị trường. Những kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam đều xuất phát từ những chế độ lãnh đạo tập trung. Trung Quốc bắt đầu “Cải cách-Mở cửa” không phải chịu áp lực lớn trong nước và hoàn toàn xuất phát từ tình hình thực tế. Còn tại Việt Nam, “Đổi mới” bắt đầu từ một thời điểm vô cùng khó khăn. Cả hai quốc gia đều phải đương đầu (dù thành công ít hay nhiều) với việc tổ chức lại cơ sở hạ tầng pháp lý – kinh tế – tài chính để có thể đưa mối quan hệ tiền tệ – hàng hoá đi vào hoạt động một cách bình thường.
Cải cách tại Trung Quốc và Việt Nam được bắt đầu với sự ưu tiên phát triển kinh tế. Trong cả hai trường hợp, đều là cố gắng giải quyết ít hay nhiều những vấn đề bức xúc nhất, mở rộng cơ sở xã hội để tìm kiếm sự ủng hộ đối với tiến trình cải cách, chủ yếu nhờ những thành công trong lĩnh vực cải cách nông nghiệp. Những thành công trong cải cách nông nghiệp mở đường thúc đẩy phát triển những lĩnh vực khác của nền kinh tế, đồng thời cô lập những bộ phận bảo thủ và chậm tiến. Sự thuận lợi của cả hai công cuộc cải cách kinh tế này đều là do Đảng quyết định thực hiện. Yếu tố đảm an ninh xã hội là tiêu chí đặc biệt mà Đảng quan tâm trong quá trình tiến hành cải cách.

Cả Trung Quốc và Việt Nam đều phải vượt qua những yếu tố chủ quan nhưng vô cùng quan trọng đó là giải phóng tư duy. Việc “Cập nhật hoá” mô hình kinh tế ở Cuba xuất phát từ nhiều thực tế quản lý và lãnh đạo tập trung của nền kinh tế, cần phải khắc phục những thói quen của nền kinh tế bao cấp. Việc thực hiện và tôn trọng pháp luật là yếu tố vô cùng cần thiết đối với nền kinh tế Cuba. Hơn một thế hệ sẽ phải vượt qua những ám ảnh bởi sự biến mất của một thực tế đã tồn tại từ nhiều năm và làm quen với một thực tế mới hoàn toàn khác.

Trong kế hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015, ngoài những vấn đề trọng tâm khác, cả Việt Nam và Trung Quốc đều nhấn mạnh tới việc phải cải thiện những tụt hậu trong giáo dục và y tế, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền cũng như phân biệt giàu nghèo, giảm mức chênh lệch trong thu nhập giữa thành thị và nông thôn, ngăn chặn tình trạng môi trường bị huỷ hoại và mở rộng mạng lưới cung cấp nước sạch.
Về phương diện chính trị cũng cần có sự thay đổi mặc dù các nhà phân tích trong và ngoài nước đều cho rằng ở khía cạnh này Việt Nam tiến bộ hơn Trung Quốc. Vai trò của công dân ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bộ máy các cơ quan nhà nước. Trong khi đó vai trò và trách nhiệm tập thể của Đảng ngày càng được củng cố. Cả nhà nước và Đảng đều nỗ lực thực thi pháp luật và tăng cường cuộc chiến chống tham nhũng.
Những kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam trong quá trình hiện đại hoá hay đổi mới những nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế cần phải được xem xét và đánh giá cả về thành quả cũng như những hạn chế./.